Đề cương nhấn mạnh:“Muốn cho ba nguyên tắc trên đây thắng, phải kịch liệt chống những xu hướng vǎn hóa bảo thủ, chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm... Nhưng đồng thời cũng phải chống xu hướng vǎn hóa quá trớn của bọn tờrốtkít”.Ba nguyên tắc đó được rút gọn thành ba thuộc tính “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa” và “Khoa học hóa”, hay thường được diễn đạt thành “Dân tộc”, “Khoa học”, “Đại chúng” với sự thay đổi trật tự chút.
Tính dân tộc được hiểu là những đặc điểm nổi bật của cộng đồng người có chung lãnh thổ, ngôn ngữ, phương thức và chế độ chính trị trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài.
Tính dân tộc là một phẩm chất độc đáo của văn hóa
Tính dân tộc là một phẩm chất mang bản chất xã hội của văn hóa, đồng thời cũng thể hiện tính độc đáo của văn hóa. Ban đầu, khi xã hội loài người chưa có sự giao lưu mạnh mẽ thì văn hóa của từng dân tộc thể hiện tính cộng đồng của dân tộc đó với những nét riêng biệt, ít trộn lẫn với dân tộc khác, nhưng dần dà khi sự hòa nhập ngày một rộng hơn thì có sự xích lại gần nhau giữa các nền văn hóa. Dẫu vậy, mỗi dân tộc đều có cách sống, cách cảm thụ thế giới và hệ giá trị riêng, với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, tâm lý và ngôn ngữ riêng, được tạo thành từ các đặc điểm tự nhiên và kinh tế vốn luôn có sự khác biệt giữa các cộng đồng dân cư khác nhau.
Tính dân tộc của văn hóa là một phạm trù mang tính lịch sử cụ thể. Nó gắn liền với những yếu tố, những sự kiện lịch sử - xã hội nhất định và nó biến đổi không ngừng. Do vậy, tính dân tộc của văn hóa không phải là một hệ thống khép kín những yếu tố bất biến nào đó mà nó gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể và luôn biến đổi, phát triển. Ta có thể hiểu, văn hóa của dân tộc Việt Nam thời Hai Bà Trưng sẽ rất khác so với thời Quang Trung và đương nhiên sẽ khác với thời đại ngày nay.
Chẳng hạn, chúng ta có một vài biểu hiện cụ thể. Trong đó, nổi bật là tiếng Việt, sản phẩm đặc sắc của văn hóa và thể hiện tính dân tộc rất rõ nét. Tiếng nói của dân tộc ta trong sáng, đa thanh, đa ngữ cảnh được làm giàu có và phong phú bởi thể thơ lục bát, ca dao, văn xuôi Việt Nam thời kỳ hiện đại, mà sau này nhà thơ Lưu Quang Vũ đã viết: “Ôi Tiếng Việt như đất cày, như lụa/ Óng tre ngà và mềm mại như tơ”. Nhưng tiếng Việt là một sinh ngữ, sẽ luôn có sự thay đổi theo thời gian, gắn với các sự thay đổi khác của dân tộc, của đời sống xã hội. Hay các loại hình văn nghệ dân gian được gìn giữ và lưu truyền như chèo, tuồng, cải lương, đờn ca tài tử, ca trù, ví, giặm, hát then, nhã nhạc cung đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên… cùng các sinh hoạt, tập tục, lễ hội trong đời sống của người Việt hàng ngàn năm được lưu truyền, phát triển… đã khẳng định tính độc đáo, riêng có, không lẫn với dân tộc nào và chứng tỏ sức sống lâu bền và bản sắc của văn hóa Việt Nam. Và bản thân các loại hình đó cũng không hoàn toàn giống nhau ở các thời điểm cụ thể.
Tính dân tộc gắn liền với khát vọng, lý tưởng và lòng yêu nước
Tính dân tộc trong văn hóa Việt Nam được thể hiện rõ nhất ở việc phản ánh khát vọng của dân tộc Việt Nam, đó là khát vọng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, khát vọng hòa bình, khát vọng phồn vinh. Đời sống tâm hồn, tình cảm, mọi mối quan hệ riêng chung của người dân Việt Nam từ xưa đến nay, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, đều xoay quanh khát vọng ấy. Trong thời kỳ hiện đại, khát vọng trở thành lý tưởng, hành động của cả một thế hệ. Khi thể hiện tính dân tộc trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, văn nghệ sĩ không thể thoát ra ngoài các đặc điểm đó, không thể không đề cập khát vọng đó. Chúng ta làm phim, viết tiểu thuyết, dựng kịch… thì đều phản ánh một hay một vài khía cạnh của khát vọng đó, thì tác phẩm mới có giá trị.
Trong văn học, nói đến tính dân tộc nghĩa là văn học phải là một phương pháp, một công cụ có hiệu lực rất mạnh mẽ, hiệu quả để đề cao tinh thần dân tộc, để nâng cao lòng ái quốc của nhân dân, để chống lại mọi sự xâm lăng, mọi thủ đoạn của các lực lượng phản động hay các âm mưu đồng hóa dân tộc ta. Như vậy, tuyệt đối không phải là tâng bốc cái xu hướng bài ngoại chủ nghĩa, vị chủng hẹp hòi. Ta đề cao tinh thần dân tộc nghĩa là biểu dương những truyền thống vẻ vang, những đức tính quật cường, những tấm gương oanh liệt của các đấng tiên liệt, của các vị anh hùng dân tộc, của các thế hệ cha anh đã phấn đấu và hy sinh vì non sông, Tổ quốc, vì tự do, độc lập của nước nhà. Ta đề cao tinh thần dân tộc nghĩa là ta phản ánh rõ chí khí đẹp đẽ của dân tộc cả trong buổi dựng nước và trong những công việc xây dựng, phát triển, hùng cường của nước nhà.
Tinh thần dân tộc đó ta phải đề cao vì nó là chính đáng, vì nó nâng cao lòng tự tôn của dân tộc, vì nó khiến ta không thể thỏa hiệp với bất cứ một sức mạnh nào đè nén hay bất kỳ sự xâm lăng nào về mặt văn hóa. Ta đề cao vì nó khuyến khích ta càng cố gắng, càng ra sức, càng phấn đấu để đưa Tổ quốc ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến tính dân tộc trong sáng tác. Khi nói chuyện về cách viết văn, viết báo, Người đã nêu ra 18 “điều răn”, trong đó về tính dân tộc, có 6 điều, đó là: 1. Không dùng một chữ nước ngoài nếu không cần. 2. Không viết một câu theo cách đặt chữ của nước ngoài nếu không cần. 3. Không dùng điển tích của nước ngoài nếu không ích gì. 4. Không được ly dị với truyền thống văn chương quý báu của dân tộc. 5. Không được miệt thị và hằn ghét cái hay của văn nghệ nước ngoài. 6. Không miệt thị văn nôm. Những điều đó có giá trị định hướng rất lớn cho những người cầm bút, bởi thực tiễn cho thấy, nếu các văn nghệ sĩ không bám sát đặc điểm và bản sắc của dân tộc thì các sáng tác của mình không thể phục vụ cho người dân trong nước.
Tiếc rằng, thực tế hiện nay, có lúc có nơi, người sáng tác vì quá hăm hở với cái mới mà xem nhẹ tính dân tộc, tính truyền thống. Chẳng hạn, trong phim ảnh, có những nội dung, bối cảnh xa lạ với đời sống của người Việt, thông qua sự vay mượn sống sượng, gán ghép kệch cỡm; trong âm nhạc, có một số ca khúc mang âm giai và ca từ “ba rọi”, lẫn lộn ngôn ngữ, cách diễn đạt nửa Tây nửa ta vừa khó hiểu vừa thiếu tính thẩm mỹ; trong văn học, có những tác phẩm dễ dãi, vụng về với các vấn đề về tính dục, khiến cái cao đẹp trong tình yêu bị hạ thấp thành trò chơi nhục dục, đi xa với truyền thống của dân tộc…
|
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay, tính dân tộc không tách rời tính hiện đại. Nếu các văn nghệ sĩ khéo kết hợp, văn học, nghệ thuật nước nhà sẽ phát triển vững vàng và hài hòa giữa dân tộc và hiện đại. Điều này đúng như ý kiến của nhà thơ Huy Cận từ thập niên 1990, trong cuốn Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc: “Chúng ta ngày nay phải xây dựng một nền văn nghệ mới theo phương châm dân tộc - hiện đại... Dân tộc mà hiện đại chứ không phải dân tộc cổ hủ, nệ cổ; hiện đại nhưng phù hợp với phong cách dân tộc, ăn khớp và liền mạch với bản sắc văn hóa dân tộc chứ không phải nhắm mắt bắt chước nước ngoài mà hóa lai căng".
Suy cho cùng, đây là một gợi ý tích cực và thiết thực cho các văn nghệ sĩ trong hoạt động sáng tác!