Tại Việt Nam, 150.000 trẻ em chào đời nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Từ ba ca thụ tinh ống nghiệm IVF đầu tiên ra đời tại Bệnh viện Từ Dũ vào 30/4/1998, đến nay Việt Nam có hơn 150.000 trẻ em được sinh ra từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, chủ yếu nhờ IVF.
Ngày 6/1, Bệnh viện Từ Dũ đã tổ chức Hội nghị “Hiếm muộn Từ Dũ mở rộng” với chủ đề “Thách thức và giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ sinh sản”. Hội nghị đã cập nhật những tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các phương pháp điều trị hiếm muộn.



Lần đầu tiên, tại hội nghị này, số lượng trẻ ra đời nhờ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, đặc biệt là IVF, đã được thống kê. Theo ThS.BS Đinh Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế), Việt Nam đã phát triển 54 cơ sở hỗ trợ sinh sản trên toàn quốc.
Theo ThS.BS Anh Tuấn, rất nhiều kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã được mang về Việt Nam và mang lại hiệu quả cao như: bơm tinh trùng vào buồng tử cung; thụ tinh trong ống nghiệm; tiêm tinh trùng vào bào tương noãn; phương pháp trưởng thành noãn trong ống nghiệm; thụ tinh ống nghiệm xin noãn; thụ tinh ống nghiệm xin tinh trùng, xin phôi; hỗ trợ phôi thoát màng; phẫu thuật lấy tinh trùng; trữ lạnh phôi, tinh trùng và noãn...

"Tỷ lệ có thai trước đây khoảng 10 - 20%, nay tăng lên 40 - 50%, có những cơ sở lên đến 70%. Đến nay, Việt Nam có hơn 150.000 trẻ em được sinh ra từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, trong đó chủ yếu là thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Đó là 150.000 niềm hạnh phúc vỡ òa, mang lại niềm hy vọng cho các cặp vợ chồng và các gia đình”, ThS.BS Đinh Anh Tuấn chia sẻ.
Ông cho biết thêm lĩnh vực hỗ trợ sinh sản vẫn còn nhiều thách thức về điều kiện kinh tế, chính sách, chất lượng giữa các cơ sở điều trị vô sinh hiếm muộn chưa đồng đều; đặc biệt nhiều đối tượng lợi dụng kẽ hở pháp luật để buôn bán tinh trùng, buôn bán noãn, buôn bán phôi, thậm chí là buôn bán trẻ em…

Theo ThS.BS Đinh Anh Tuấn, đến nay, bệnh nhân vô sinh hiếm muộn hầu như vẫn chưa có chính sách hỗ trợ. Trong khi đó, với đại đa số người lao động, chi phí điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - dù ở mức rất thấp so với thế giới - vẫn là gánh nặng kinh tế quá lớn, với số tiền hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng một ca điều trị vô sinh hiếm muộn.
Theo BSCKII Trần Ngọc Hải, Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, từ năm 1997, bệnh viện bắt đầu triển khai thực hiện kỹ thuật IVF và 3 đứa trẻ sinh ra lần đầu tiên vào ngày 30/4/1998. Đến nay, số lượng trẻ ra đời bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản, đặc biệt là IVF, tại Bệnh viện Từ Dũ hơn 17.000 em (chiếm khoảng 20% trên cả nước).
Hội nghị “Hiếm muộn Từ Dũ mở rộng” năm nay có sự tham gia của các báo cáo viên đến từ các bệnh viện lớn, có kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, như Bệnh viện Từ Dũ, Hùng Vương, Mỹ Đức, Phụ sản Cần Thơ…


Nhiều chủ đề nóng và mới nhất trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản đã được báo cáo: Xu hướng mới bảo tồn sinh sản với kỹ thuật trữ mô buồng trứng; ứng dụng sản phẩm giàu tiểu cầu với sự tái tạo nội mạc tử cung; quan điểm mới về vai trò progesteron trước chuyển phôi; ứng dụng timelapse trong thụ tinh ống nghiệm hiện đại; cá thể hóa kích thích buồng trứng với Gonadotropin; trữ phôi toàn bộ có nên là mô hình chuẩn trong thụ tinh ống nghiệm?...
Khoảng 7 - 10% dân số trong độ tuổi sinh đẻ tại Việt Nam bị hiếm muộn. Hai phương pháp thường dùng để giúp tăng khả năng mang thai cho các cặp vợ chồng hiếm muộn là bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) - tinh trùng và trứng được lấy ra ngoài, cho thụ tinh ngoài cơ thể, sau đó nuôi và cấy phôi lại trong buồng tử cung.