Giáo dục

Người thầy mặc áo blouse trắng

Tác giả: Cẩm Linh - Thiết kế: Hoàng Quỳnh 20/11/2025 06:00

Gần nửa thế kỷ khoác áo blouse trắng, PGS.TS Vũ Xuân Phú vẫn giữ nguyên triết lý quả táo - tri thức càng chia sẻ càng lớn lên. Giữa bộn bề bệnh viện, ông vẫn lặng lẽ bồi đắp thế hệ kế cận - những người sẽ tiếp tục hành trình cứu người mà ông đã dành cả đời theo đuổi.

56f190ed1b3b9765ce2a.jpg

Chỉ ít phút trước cuộc trò chuyện, PGS.TS Vũ Xuân Phú vừa hoàn tất phần khai mạc khóa “Đào tạo chuyên sâu về chẩn đoán, điều trị và chăm sóc bệnh lý ngưng thở khi ngủ” tại hội trường chính của Bệnh viện Phổi Trung ương, giọng ông vẫn trầm ấm và rắn rỏi như người đã quen truyền ngọn lửa nghề cho lớp trẻ.

Trong căn phòng nhỏ góc bệnh viện, những chồng giáo trình vẫn nằm ngay ngắn bên cạnh tập hồ sơ bệnh án. Giữa bộn bề công việc quản lý và điều trị, PGS.TS Vũ Xuân Phú - Phó Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương vẫn dành thời gian đọc lại bài giảng, chỉnh từng slide cho lớp học sắp tới.

Gần nửa thế kỷ trong ngành, ông không chỉ là thầy thuốc tận tâm, mà còn là người thầy tận hiến - người đã gieo “hạt nghề” cho bao thế hệ bác sĩ trẻ. Với ông, y học là hành trình nối tiếp, nơi mỗi bàn tay chữa bệnh hôm nay có thể trở thành bàn tay truyền nghề ngày mai.

“Trong nghề y, hai vai thầy thuốc và thầy giáo thực ra không tách biệt. Khi đã làm bác sĩ, đến một lúc nào đó người ta sẽ thấy mình cần có trách nhiệm đào tạo thế hệ sau”, ông nói chậm rãi, giọng trầm ấm nhưng kiên định trong cuộc trò truyện với Tạp chí Khoa học phổ thông.

titlephu1.jpg

- Cơ duyên nào đưa ông đến con đường vừa làm bác sĩ, vừa làm nhà giáo - hai trọng trách song hành mà ít người có thể đảm đương lâu dài?

Trong nghề Y, hai vai “thầy thuốc” và “thầy giáo” thực ra không tách biệt. Khi đã làm bác sĩ, đến một lúc nào đó người ta sẽ thấy mình cần có trách nhiệm đào tạo thế hệ sau - những đồng nghiệp tương lai. Hầu hết ai cũng có người thầy dẫn dắt, và rồi lại trở thành người truyền nghề cho học trò. Bởi y học là lĩnh vực mà kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần được tiếp nối liên tục.

Có một thực tế cần phải thừa nhận rằng, thầy giáo thì khó trở thành thầy thuốc được, nhưng thầy thuốc lại rất nhiều khả năng trở thành thầy giáo. Còn nói nghề chọn người hay người chọn nghề, theo tôi, cả hai đều đúng. Tôi vào Trường Đại học Y Hà Nội từ hơn 43 năm trước. Được học hành, được rèn nghề và rồi gắn bó đến tận hôm nay, tôi hiểu rõ cái duyên ấy lớn đến mức nào.

Từ ngày ra trường, tôi về công tác tại Bộ Y tế, sau đó về giảng dạy tại Trường Đại học Y tế Công cộng và được mời giảng ở một số cơ sở đào tạo khác trong Ngành trên toàn quốc và dần đảm nhiệm công tác quản lý, xây dựng chương trình và đào tạo trong Ngành. Gần nửa thế kỷ trôi qua, càng gắn bó, càng thấy rõ giá trị của việc truyền lại những gì mình học được. Và thế là, từ thầy thuốc, tôi trở thành thầy giáo một hành trình tự nhiên, vừa làm nghề, vừa truyền nghề.

Đi cùng với niềm đam mê, người làm nghề y cần có bản lĩnh, sự tự tin vào chuyên môn và cả khả năng thích ứng với những yêu cầu khắt khe của nghề. Chỉ khi có đam mê và lòng yêu nghề, sự bền vững với nghề mới có thể duy trì lâu dài, dù là trong phòng bệnh hay trên giảng đường. Khi hội tụ đủ những yếu tố đó, công việc không còn đơn thuần là nhiệm vụ, mà trở thành niềm vui, niềm tự hào và là một phần ý nghĩa trong cuộc sống.

quote1.jpg

- Trong nhiều năm gắn bó với Bệnh viện Phổi Trung ương, ông thấy vai trò “người thầy” thể hiện rõ nhất ở khía cạnh nào?

Gần 20 năm gắn bó với Bệnh viện Phổi Trung ương, tôi vẫn song hành hai vai trò: vừa quản lý, vừa giảng dạy. Ở giai đoạn đầu, tôi là Chủ nhiệm bộ môn của một trường đại học trong hệ thống y tế - trực tiếp giảng dạy từ bậc đại học, cao học đến nghiên cứu sinh; tham gia hội đồng chấm luận văn, luận án và hướng dẫn nhiều học viên sau đại học.

Về công tác tại Bệnh viện Phổi Trung ương, ngoài vị trí Phó Giám đốc Bệnh viện tôi tiếp tục đảm nhiệm vai trò kiêm Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo tuyến. Nhiệm vụ của tôi là đào tạo tại chỗ cho đội ngũ nhân viên y tế, đồng thời bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ y tế ở khắp các địa phương - những đồng nghiệp tuyến tỉnh, tuyến huyện.

Nói cách khác, dù ở môi trường nào, công tác đào tạo vẫn luôn là phần không thể tách rời trong công việc của tôi và vẫn được duy trì cho đến hôm nay.

- Theo ông, người thầy trong ngành y khác gì so với người thầy trong những lĩnh vực khác?

Người thầy ở lĩnh vực nào cũng cần có những tố chất chung: kiến thức vững vàng, khả năng truyền đạt và sự gương mẫu. Nhưng người thầy trong ngành y đặc biệt hơn ở tính thực hành và trách nhiệm, với môi trường mà mọi sai sót đều có thể ảnh hưởng đến tính mạng con người.

Người thầy thuốc không chỉ dạy lý thuyết mà còn “thị phạm”, làm gương trong từng thao tác, từng ca bệnh. Học trò không chỉ học bằng tai và mắt, mà còn bằng chính cảm nhận khi chứng kiến thái độ, cách ứng xử, sự kiên nhẫn của thầy với bệnh nhân.

Khác với các lĩnh vực khác, sinh viên y khoa, từ khi còn ngồi ở giảng đường phải gắn bó nhiều hơn với môi trường thực tế, chịu áp lực lớn về đạo đức, pháp lý và chuyên môn. Vì vậy, người thầy trong ngành y phải vừa dạy nghề, vừa dạy cách làm người. Họ phải giúp học trò hiểu rằng “người bệnh không chỉ là bệnh nhân, mà là con người cần được tôn trọng và thấu hiểu”.

Cũng có người vẫn nói, “người bệnh là khách hàng”, nhưng thực chất đó là những con người đang đặt niềm tin, tính mạng vào tay thầy thuốc. Không có quy định nào trong giáo trình có thể dạy trọn vẹn điều ấy. Nó đến từ sự đồng cảm, từ trải nghiệm và từ văn hóa nghề nghiệp được truyền qua nhiều thế hệ.

Ngành y vất vả ở cả những đặc thù mà người ngoài không nhìn thấy: môi trường làm việc đầy rủi ro, nguy cơ phơi nhiễm cao, thời gian đào tạo kéo dài - ít nhất 6 năm đại học, thêm 3 - 4 năm sau đại học và nhiều năm thực hành mới có thể hành nghề tự tin. Chính vì thế, người thầy thuốc cần bản lĩnh, đức độ và tinh thần nhân ái - những điều không có trong giáo trình, chỉ có thể học từ trải nghiệm và tấm gương của người thầy đi trước.

title2.jpg

- Nhiều người nói “y đức là bài học không có trong giáo trình”, theo ông, làm thế nào để truyền dạy y đức cho học trò trong thực hành hàng ngày? Điều quan trọng nhất mà người thầy cần truyền lại cho học trò là gì?

Y đức chính là sự trải nghiệm. Nó không nằm trên trang sách, mà trong từng ca bệnh, những lần tiếp xúc với người bệnh. Mỗi ngày, bác sĩ học thêm một điều từ thực tiễn, tích lũy thành vốn sống, thành bản năng nghề nghiệp.

Một thầy thuốc giỏi không chỉ biết khám và chữa bệnh. Họ còn phải biết quản lý, điều hành, nghiên cứu, xây dựng chính sách, kêu gọi hợp tác quốc tế cho các chương trình y tế, thậm chí tham gia tham mưu vĩ mô cho ngành. Phạm vi của người thầy thuốc ngày nay rất rộng - từ cấp quốc tế đến từng cộng đồng nhỏ, tất cả đều đòi hỏi tấm lòng, trách nhiệm và sự chính trực.

Do đó, điều quan trọng nhất mà người thầy cần truyền lại cho học trò là thái độ đúng đắn với nghề và với con người. Kiến thức có thể học, kỹ năng có thể rèn, nhưng nếu không có thái độ nghề nghiệp đúng thì mọi thứ đều trở nên vô nghĩa.

quote4.jpg

- Khi đào tạo bác sĩ trẻ, ông coi trọng điều gì hơn: Kiến thức, kỹ năng hay thái độ với nghề?

Với tôi, trước hết là thái độ. Thái độ tốt sẽ tạo ra ý thức, từ ý thức mới hình thành nguyên tắc học tập và làm việc đúng đắn. Một sinh viên, học viên có thái độ nghiêm túc sẽ biết tự đặt mục tiêu, biết mình cần học gì và vì sao phải học.

Tôi không đòi hỏi học trò phải ngồi nghe giảng suốt ngày, cũng không bắt buộc thuộc lòng máy móc. Tôi chỉ yêu cầu họ hiểu vấn đề, biết tư duy, biết phản biện và giải quyết tình huống thực tế. Trong những môn học thiên về quản lý hay sức khỏe cộng đồng, tôi khuyến khích học trò tự đọc, tự hỏi và đối thoại. Còn với các môn lâm sàng, dĩ nhiên có những kiến thức phải nắm vững, thuộc lòng và nhớ chính xác.

Bài kiểm tra, bài thi của tôi ra đề vì thế không bao giờ là những câu hỏi máy móc, mà là những tình huống thực tế để xem sinh viên, học viên tư duy và phản ứng, xử lý như thế nào.

Điều tôi coi trọng là sự tương tác giữa thầy và trò - mối quan hệ dựa trên tôn trọng, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau. Tôi luôn nói với sinh viên rằng, kiến thức thì có thể một ngày nào đó các em có thể bằng, thậm chí hơn thầy, nhưng kinh nghiệm thì chỉ có thể đạt được bằng thời gian và trải nghiệm. Tôi tin như vậy, và thực tế, nhiều học trò của tôi bây giờ đã giỏi hơn thầy về mặt kiến thức - điều mà tôi rất tự hào.

- Ông từng chia sẻ niềm tự hào về học trò GS. TS. Trần Xuân Bách - người lọt top 10.000 nhà khoa học hàng đầu thế giới và nhiều giải thưởng khác. Với ông, cảm xúc của một người thầy khi thấy học trò thành danh có ý nghĩa như thế nào?

Với những người thầy chân chính, điều hạnh phúc nhất là được cho đi, là tạo ra “giá trị gia tăng” cho thế hệ sau.

Tôi từng chia sẻ với đồng nghiệp về “lý thuyết quả táo”. Vật chất, như một quả táo, nếu chia ra thì sẽ vơi đi. Nhưng tri thức thì khác, càng chia sẻ, càng nhân lên. Vì vậy, người thầy không bao giờ tiếc chia sẻ tri thức với học trò. Không giữ bài, không giấu nghề. Có bao nhiêu, mình đều trao hết, chia sẻ hết.

Từ những năm tháng còn là giảng viên trẻ, khi dẫn sinh viên đi thực địa, tôi đã luôn giữ tâm lý ấy. Không riêng gì Giáo sư Trần Xuân Bách - người hiện rất thành danh, mà nhiều học trò khác của tôi giờ cũng đã thành đạt. Có người chưa đạt học hàm học vị cao như Bách, nhưng đều là những nhà khoa học, phó giáo sư, nhà nghiên cứu có uy tín trong Ngành, mỗi người đóng góp ở một lĩnh vực khác nhau của y học.

anh12.jpeg
Thầy trò PGS.TS Vũ Xuân Phú trong chuyến đi thực địa mùa hè hơn 20 năm trước. GS.Trần Xuân Bách mặc áo màu cốm cùng nhóm sinh viên do PGS.TS Vũ Xuân Phú hướng dẫn.

Trong một lớp học, khi học trò tiếp thu được những điều mình muốn truyền đạt, đó là niềm hạnh phúc đầu tiên của người thầy. Còn khi họ trưởng thành, vận dụng được những nguyên tắc, thái độ, phương pháp, đạo đức hành nghề, thậm chí nói rằng “em muốn làm theo thầy” thì đó là niềm hạnh phúc lớn hơn nhiều.

Cảm giác ấy cũng giống như niềm vui của một thầy thuốc khi chẩn đoán đúng và chữa khỏi bênh cho bệnh nhân. Với người thầy giáo, việc đào tạo được một học trò giỏi, bảo vệ luận văn xuất sắc, đó cũng là “sản phẩm nghề nghiệp” của mình. Dù công sức chính thuộc về học trò, nhưng người thầy vẫn góp phần quan trọng: truyền cảm hứng, định hướng, trao phương pháp. Và với tôi, đó chính là giá trị đẹp nhất của nghề.

- Trong một bài viết, ông nói rằng “thế hệ sau, học trò vượt thế hệ trước, hơn Thầy, hơn Cha thì mới hợp lẽ”. Đó có phải là triết lý dạy học mà ông luôn theo đuổi? Ông làm thế nào để khuyến khích học trò của mình mạnh dạn “vượt thầy”?

Tôi nghĩ điều này không có trong bất kỳ giáo trình hay định lý nào cả. Đó đơn giản là suy nghĩ của tôi, xuất phát từ quy luật tự nhiên và logic của một người làm khoa học.

Môi trường đào tạo bây giờ khác xa 43 năm trước. Ngày tôi còn là sinh viên, điều kiện học tập, trao đổi thông tin rất hạn chế. Còn hiện nay, thế hệ trẻ có thể tiếp cận tri thức từ vô số nguồn mở - đa tầng, đa chiều, không chỉ từ thầy cô, nhà trường hay bộ môn.

Bởi vậy, phản xạ tư duy, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin của sinh viên ngày nay khác hẳn với thế hệ chúng tôi. Tôi vẫn nói vui: “Đứa trẻ 6 tuổi của năm 2025 khác hoàn toàn đứa trẻ 6 tuổi của năm 1965”. Cùng độ tuổi, nhưng thế giới, công nghệ, cách tư duy đã khác.

Do đó, tôi khẳng định, về mặt kiến thức, học trò hoàn toàn có thể đạt đến, thậm chí vượt qua thầy. Họ có cơ hội học tập, tích lũy, và tiếp cận kho tri thức khổng lồ mà thế hệ trước không có. Và đó là điều tự nhiên, đáng mừng.

Còn kinh nghiệm, thì khác. Kinh nghiệm là thứ được tích lũy qua thời gian, qua va chạm thực tế, qua từng năm tháng hành nghề. Chừng nào người thầy còn tiếp tục học hỏi, còn tiến lên, thì trò sẽ chưa thể “đuổi kịp”. Chỉ khi người thầy dừng lại - khi đã già, không còn hành nghề, hoặc không còn đủ minh mẫn, thì khi ấy, trò mới có thể bằng thầy về kinh nghiệm.

Nhưng về kiến thức, tôi tin chắc học trò sẽ luôn có thể vượt thầy. Và điều đó là niềm tự hào của người thầy, chứ không phải nỗi lo hay sự đố kỵ.

Tôi cũng nói với các đồng nghiệp ở Bệnh viện Phổi Trung ương: “Đừng bao giờ sợ cấp dưới giỏi hơn mình”. Người lãnh đạo, người thầy càng cần mong muốn cấp dưới, học trò giỏi hơn, vì đó là minh chứng cho sự trưởng thành của tập thể và là thành công của chính mình.

title3.jpg

- Ngành y đang thay đổi nhanh với trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, bác sĩ trẻ có thể học kiến thức trên mạng, ông đánh giá thế nào về vai trò của người thầy trong việc dẫn dắt sinh viên, bác sĩ trẻ thích ứng với những biến chuyển này? Làm thế nào để giúp họ hiểu rằng nghề y không chỉ là kỹ năng, mà còn là sự tận tâm và trách nhiệm?

Tôi không phải là người bảo thủ, nhưng cũng không phải ai tân tiến đến đâu tôi cũng vội tin theo. Ngày chúng tôi ra trường, chưa có máy tính cá nhân. Sau này, khi đi học nước ngoài, chiếc laptop đầu tiên của tôi chỉ có ổ cứng 2GB - thua xa một chiếc USB bây giờ. Thế nhưng, chính thế hệ chúng tôi là lớp đầu tiên trong ngành y được tiếp cận công nghệ thông tin để phục vụ chuyên môn: thống kê y học, xử lý dữ liệu, viết báo cáo, phân tích kết quả.

Công nghệ giúp ích rất nhiều. Nhưng tôi luôn nhắc học trò đừng phụ thuộc. Trí tuệ nhân tạo AI, hay ChatGPT chẳng hạn, có thể hỗ trợ bước đầu, gợi ý, định hướng, cung cấp thông tin tham khảo. Nhưng nó không thể thay thế tư duy con người. Nếu lạm dụng, để công cụ làm thay, thì khả năng tư duy phản biện và sáng tạo sẽ bị thui chột.

Nhiều lần tôi nhận ra học trò dùng AI để viết bài, tôi không phê bình nhưng tôi sửa. Vì tôi muốn họ hiểu, công cụ chỉ hỗ trợ, còn sản phẩm học thuật phải có dấu ấn của chính mình.

Điều đáng lo là khi sự tiện lợi đi cùng với thái độ cầu thả, không kiểm tra, không chỉnh sửa, “copy-paste” nguyên xi. Tôi từng gặp tình huống sinh viên nộp bài giống nhau đến từng lỗi, khiến tôi tưởng họ sao chép. Sau xác minh, hóa ra thợ photocopy đóng nhầm bìa. Dù vậy, tôi vẫn cho họ cơ hội giải trình. Làm thầy, phải nghiêm nhưng cũng phải công tâm.

Tôi coi trọng tính chuẩn mực và trung thực, cả trong hành chính, đạo đức, lẫn học thuật.

Với công nghệ, tôi luôn nói: “Hãy tận dụng tối đa, nhưng phải có lý trí”. Dữ liệu trên mạng, kể cả Wikipedia hay AI, không phải lúc nào cũng đúng hết. Học trò cần biết chọn lọc, sàng lọc, và quan trọng nhất là phải có ‘input’ của chính mình - tức là sự nỗ lực, tư duy, và đóng góp cá nhân.

Kế thừa tri thức nhân loại là cần, nhưng phải biết tạo ra giá trị riêng. Chỉ khi đó, sản phẩm của người học mới thật sự là của họ chứ không phải của một công cụ.

Còn với tôi, dù biết sử dụng AI, nhưng đến giờ, tôi vẫn chọn không dùng nó để viết báo cáo thay mình. Đơn giản vì tôi muốn tư duy của mình luôn được vận động, không bị máy móc thay thế.

ghepphoi2024.jpeg
Ê kíp thầy thuốc, nhân viên y tế phục vụ ca ghép phổi tại Bệnh viện phổi Trung ương

- Những thế hệ bác sĩ mà ông từng đào tạo, ông nhìn thấy điều gì ở họ khiến ông tin rằng “ngọn lửa nghề” vẫn đang được truyền tiếp?

Đó là sự thành đạt. Bởi khi đã thành đạt, nghĩa là họ đã thành công. Và chính sự thành công của học trò, của thế hệ sau là nguồn động viên, là động lực để người thầy tiếp tục cống hiến, tiếp tục giúp đỡ thế hệ kế cận. Thử hỏi, nếu người thầy dạy mà trò nào cũng thất bại, thì lấy đâu ra niềm tin, lấy đâu ra lý do để tiếp tục đứng lớp, hành nghề? Cũng giống như một bác sĩ không thể chữa khỏi cho bệnh nhân nào thì khó mà còn giữ được nhiệt huyết.

Với tôi, sự thành công của học trò chính là minh chứng cho quá trình đào tạo hiệu quả, rằng họ có kiến thức, kỹ năng, thái độ tốt trong môi trường làm việc. Khi họ thành đạt, có vị trí, có danh, có uy tín, thì đó cũng là niềm tự hào lớn nhất của người thầy.

Bên cạnh đó, đạo đức nghề nghiệp là điều tôi luôn quan tâm. Một người học trò biết ứng xử đúng mực, không chỉ với thầy, mà với đồng nghiệp, bệnh nhân, người nhà bệnh nhân là người có đạo đức, có văn hóa. Khi họ hành xử đúng quy tắc, không để lại điều tiếng, có trách nhiệm với nghề, thì đó mới thực sự là thành công. Người thầy luôn mong học trò giữ được đạo đức, không để điều tiếng, không vi phạm quy tắc ứng xử hay pháp luật.

Dĩ nhiên, trong nghề y, vẫn có những trường hợp đáng tiếc, có thể do vô tình, có thể do cố ý. Nhưng nếu vi phạm xuất phát từ sự băng hoại đạo đức, thì đó là điều không thể chấp nhận. Học trò mà vi phạm đạo đức hay quy định pháp luật, dù không phải lỗi của thầy, nhưng cũng khiến người thầy không vui. Nhiều người thầy thậm chí tự vấn: liệu cách mình dạy, cách mình làm gương, có ảnh hưởng gì đến học trò không? Câu chuyện nhận phong bì là ví dụ điển hình. Không có người thầy nào dạy học trò cầm phong bì của bệnh nhân hay của chính học trò mình cả. Người thầy có đạo đức, có lòng tự trọng sẽ không làm điều đó. Nhất là khi học trò vẫn đang đi học, còn khó khăn, phụ thuộc, thì càng không nên nhận. Thầy thuốc đàng hoàng cũng không bao giờ nhận phong bì của người bệnh, dù ít hay nhiều, vì về mặt đạo đức, điều đó là không đúng.

Người thầy thực sự có đạo đức thì sẽ không bao giờ trông chờ “lợi ích” ngoài nghề, mà chỉ mong học trò trưởng thành và làm nghề tử tế.

- Ở góc độ quản lý, ông cho rằng hệ thống đào tạo bác sĩ nội trú, chuyên khoa hiện nay cần cải thiện gì để giúp thế hệ mới vừa giỏi nghề, vừa vững y đức?

Trước hết, cần có hành lang pháp lý rõ ràng và đầy đủ. Luật Khám chữa bệnh đã quy định cụ thể về quyền của người bệnh và quyền của thầy thuốc - hai bên đều có trách nhiệm và giới hạn riêng. Việc đầu tiên là mỗi người phải hiểu luật để thực hiện đúng quyền, đúng chuẩn mực.

Từ góc độ giảng dạy, ngành y và ngành giáo dục đều cần hệ thống văn bản dưới luật để bảo vệ cả người dạy và người học. Bộ Giáo dục – Đào tạo phải có trách nhiệm với lực lượng giáo viên, còn Bộ Y tế phải bảo vệ thầy thuốc, nhân viên y tế bằng các quy định cụ thể, hướng dẫn rõ ràng để đảm bảo an toàn trong môi trường hành nghề.

quote5.jpg

Một yếu tố quan trọng khác là giáo dục tư tưởng đạo đức và hiểu biết pháp luật. Người học y cần hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình, cũng như quy tắc ứng xử trong nhà trường và trong bệnh viện. Cũng cần nói thêm, quyền giám sát của người dân phải được hiểu đúng. Không phải ở đâu cũng được phép quay phim, chụp ảnh tùy tiện - đặc biệt là trong khu vực cấp cứu hay phòng mổ, nơi yêu cầu vô khuẩn tuyệt đối. Nhưng nếu bác sĩ vi phạm quy tắc ứng xử, người dân có quyền phản ánh. Vấn đề là phải phân biệt giữa phản ánh chính đáng và hành vi cản trở chuyên môn.

Tất nhiên, nếu nhân viên y tế vi phạm chuẩn mực nghề nghiệp như ăn mặc, y phục, hành xử không đúng quy định thì người dân có quyền phản ánh. Nhưng cũng có những trường hợp bị hiểu lầm, bị “oan”, do người ngoài không hiểu bối cảnh chuyên môn. Vì vậy, hành lang pháp lý cần đủ linh hoạt để vừa bảo vệ thầy thuốc, vừa đảm bảo quyền giám sát của người dân. Cái gốc vẫn là giáo dục đạo đức nghề nghiệp, để mỗi người hành nghề y đều hiểu rằng, làm đúng là để bảo vệ chính mình và bệnh nhân.

- Sau nhiều năm trong nghề, điều khiến ông trăn trở nhất khi dạy học trò là gì?

Điều khiến tôi trăn trở nhất chính là sự vất vả của học trò. Con đường học vấn của ngành y rất dài, rất gian nan. Để hành nghề, họ phải học hết lớp này đến lớp khác, lấy đủ chứng chỉ, học cao học, tiến sĩ,... mà mỗi bậc lại có hàng loạt yêu cầu khắt khe, từ đề cương, thu thập số liệu, phân tích, viết báo cáo, sửa đi sửa lại nhiều lần, rồi mới đến bảo vệ.

Nếu không có người thầy hướng dẫn tận tâm, học trò rất dễ nản chí hoặc thất bại. Thu thập số liệu, phân tích, rồi bảo vệ luận văn - tất cả đều là một hành trình bền bỉ.

Tôi trăn trở vì nhiều quy định, ràng buộc khiến học trò chịu áp lực lớn, nhất là những người đi theo con đường học thuật chính thống, chân chính. Họ vất vả cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Ngược lại, có những người chỉ muốn “mua danh”, chạy theo bằng cấp mà không thực học thì tôi không gọi đó là học. Bằng cấp chỉ có ý nghĩa khi đi cùng năng lực thật.

Tôi trăn trở vì hiểu rằng, để có được tấm bằng thật sự, học trò phải đi qua chuỗi nỗ lực rất lớn, với nhiều khó khăn và rào cản - cả hữu hình lẫn vô hình. Nhưng chỉ có học thật, làm thật mới đem lại năng lực thật, mới giúp họ thành công và thành đạt một cách chính đáng.

- Nếu được gửi gắm một lời nhắn đến các sinh viên y khoa, ông sẽ nói gì về hành trình phía trước - một hành trình nhiều vinh quang nhưng cũng đầy thử thách?

Dù là người thầy hay người thợ, ai cũng mong tạo ra “sản phẩm” tốt, mà trong nghề y, “sản phẩm” ấy chính là sức khỏe và sinh mạng con người. Với thầy thuốc, thành công là khi người bệnh được điều trị khỏi và không phải quay lại bệnh viện. Với người thầy, thành công là đào tạo được thế hệ học trò giỏi, có năng lực, đạo đức và tư duy độc lập.

Một người thầy ngành y giỏi cần đào tạo ra thế hệ học trò tốt, mà “tốt” ở đây không chỉ là kiến thức, mà còn là tư duy, khả năng xử lý vấn đề, thích nghi với hoàn cảnh, có đạo đức nghề nghiệp và tinh thần tận hiến.

Tôi vẫn nói với học trò: học nhiều, làm nhiều nhưng phải sống được bằng nghề. Có học hàm, học vị cao mà cuộc sống cá nhân không ổn thì cũng khó toàn tâm với nghề. Bởi khi còn chật vật cơm áo, con người dễ sa vào tiêu cực. Một bác sĩ hay một nhà khoa học muốn cống hiến thì trước hết phải sống được bằng chính công việc của mình.

Cuối cùng, điều quan trọng nhất là thái độ nghiêm túc. Khi làm việc nghiêm túc, dần dần sẽ hình thành đam mê. Đam mê ấy, nếu được nuôi dưỡng trong một môi trường tốt, có văn hóa và công bằng, sẽ trở thành tình yêu nghề cháy bỏng.

Tôi vẫn thường nói với học trò hãy chọn thái độ đúng trước, còn phương pháp thì tùy. Miễn là con đường em đi phải đưa em đến đích. Và khi đã đạt được chuỗi thành công, em sẽ nhận ra giá trị của mình, có thêm động lực để tiếp tục cống hiến âm thầm nhưng bền bỉ. Đó chính là tận hiến.

title4.jpg

- Là người dành nhiều tâm huyết cho Kinh tế y tế - lĩnh vực còn khá mới ở Việt Nam, theo ông vì sao đến nay lĩnh vực này vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi trong chính sách và quản lý bệnh viện?

Thực ra, việc tôi đến với kinh tế y tế là một cái duyên. Ngày ấy, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Y Hà Nội, tôi về Bộ Y tế công tác. Khi đó còn trẻ, chưa lập gia đình, tôi cũng muốn học thêm gì đó, đầu tiên là hệ BS chuyên khoa I, sau đó tôi theo học đại học văn bằng 2 về Quản trị doanh nghiệp ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Học kinh tế rồi, tôi thấy có thể vận dụng những lý thuyết kinh tế học vào việc quản lý và vận hành trong hệ thống y tế. Từ đó, tôi tiếp tục học Cao học về Kinh tế y tế ở nước ngoài - một chương trình do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xây dựng và triển khai tại nhiều nước châu Á như Thái Lan, Philippines,…

Thời điểm đó, ở Việt Nam hầu như chưa ai biết đến khái niệm “Kinh tế y tế”. Trong khi ở các nước phát triển, đây là một môn học quan trọng phục vụ cho quản lý ngành y - cũng giống như nông nghiệp có kinh tế nông nghiệp, thủy lợi có kinh tế thủy lợi. Kinh tế y tế, nói một cách đơn giản, là vận dụng lý thuyết kinh tế học vào quản lý và giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động của ngành y tế, từ tầm vĩ mô của hệ thống y tế quốc gia cho đến từng bệnh viện, trạm y tế, hay một chương trình y tế, hay phác đồ điều trị cụ thể, và công nghệ y học.

Sau này, khi tôi cùng đồng nghiệp xây dựng Bộ môn Kinh tế Y tế tại Trường Đại học Y tế Công cộng - nơi tôi là Chủ nhiệm bộ môn, chúng tôi đã biên soạn những giáo trình đầu tiên cho sinh viên đại học và cao học. Ban đầu, các khái niệm còn rất mới, nhiều bác sĩ, thậm chí cả nhà quản lý cũng chưa từng nghe qua. Nhưng dần dần, môn học này đã được giảng dạy trong hầu hết các trường y trên cả nước.

Về rào cản, tôi cho rằng lớn nhất là nhận thức. Nhiều người vẫn nghĩ rằng quản lý bệnh viện đơn giản chỉ là “thu chi, doanh thu, lời lỗ”, mà chưa hiểu đó là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải nắm rõ quy trình vận hành, yếu tố đầu vào - đầu ra, công suất sử dụng giường bệnh, hay các thuật toán để đảm bảo cả hiệu quả chuyên môn lẫn hiệu quả tài chính. Quản lý bệnh viện không thể chỉ dựa vào cảm tính hay kinh nghiệm cá nhân, mà phải dựa trên cơ sở khoa học, luật pháp và những công cụ phân tích hiện đại của kinh tế y tế.

Ở khu vực tư nhân, các bệnh viện đã sớm quan tâm hơn tới vấn đề này vì mục tiêu của họ là lợi nhuận (profit). Trong khi đó, bệnh viện công hướng đến lợi ích (benefit), tức là phục vụ người bệnh và xã hội, kể cả khi phải bán dịch vụ “hoà vốn” hoặc chịu lỗ. Hai khái niệm này khác nhau rất rõ - và để đạt được “lợi ích” ấy, càng cần phải có nền tảng quản lý bài bản dựa trên nền tảng là môn khoa học kinh tế y tế.

- Trong bối cảnh nguồn lực y tế còn hạn hẹp nhưng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng, kinh tế y tế có thể giúp Việt Nam giải bài toán “công bằng - hiệu quả - bền vững” như thế nào?

Nguyên tắc đầu tiên là phải nhìn nhận rằng nguồn lực luôn hữu hạn, trong khi nhu cầu cho chăm sóc sức khỏe là vô hạn. Do đó, điều quan trọng là phải lựa chọn ưu tiên. Cơ quan quản lý, từ Bộ Y tế trở xuống, cần đánh giá đâu là những vấn đề sức khỏe cấp bách nhất như dịch bệnh lây lan nhanh, bệnh tật nguy hiểm, hay các nhóm dân cư dễ bị tổn thương để ưu tiên nguồn lực xử lý trước.

Trong kinh tế y tế, chúng tôi gọi đó là “setting priority” - sắp xếp, lựa chọn ưu tiên. Việc phân bổ nguồn lực không thể dàn trải mà phải dựa trên các tiêu chí công bằng, hiệu quả và tính bền vững. “Công bằng” ở đây không chỉ là bình đẳng giữa người với người, mà còn là công bằng giữa các vùng miền, các nhóm dân cư – hay nói cách khác là “equity” chứ không chỉ “equality”, sự phân biệt khái niệm về công bằng và bình đẳng.

“Bền vững” có nghĩa là một chương trình y tế vẫn có thể vận hành hiệu quả khi nguồn viện trợ quốc tế cắt giảm. Chẳng hạn, nhiều năm qua chương trình chống lao hay phòng chống HIV/AIDS của Việt Nam được tài trợ phần lớn từ Quỹ Toàn cầu và các tổ chức quốc tế. Nhưng đến khi viện trợ giảm, chúng ta phải tự chủ bằng ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương và quan trọng nhất là từ quỹ bảo hiểm y tế toàn dân.

Nếu không tính được bài toán bền vững ngay từ đầu, mọi dự án y tế đều có nguy cơ “chết yểu” khi nguồn vốn bên ngoài hết đi. Đó chính là vai trò của kinh tế y tế giúp hoạch định chính sách và phân bổ nguồn lực sao cho đạt hiệu quả cao nhất, trong khi vẫn duy trì công bằng và bền vững lâu dài.

quote6.jpg

- Việt Nam nên bắt đầu từ đâu để hình thành hệ thống quản lý kinh tế y tế hiện đại và phù hợp với điều kiện thực tế, thưa ông?

Trước hết, muốn quản lý tốt, chúng ta phải biết mình đang ở đâu. Các nhà hoạch định chính sách cần nắm được bức tranh toàn cảnh của hệ thống y tế Việt Nam, từ quy mô dân số, mô hình bệnh tật, phân bố vùng miền, cho đến chất lượng nguồn nhân lực và hạ tầng y tế.

Từ bức tranh đó mới có thể xác định vấn đề ưu tiên và thiết kế các giải pháp phù hợp cho từng vùng, từng giai đoạn. Chẳng hạn, không thể áp dụng cùng một mô hình cho đồng bằng sông Hồng và vùng núi phía Bắc. Ở nơi này cần tập trung vào y tế dự phòng, nơi khác lại cần đẩy mạnh điều trị chuyên sâu.

Về lâu dài, hệ thống quản lý cần được xây dựng đồng bộ, có “nhạc trưởng”, chứ không thể làm rời rạc. Ví dụ, việc triển khai bệnh án điện tử, nếu mỗi bệnh viện tự thuê lập phần mềm riêng, tự kết nối theo cách khác nhau thì không thể đồng bộ với hệ thống bảo hiểm hay cơ sở dữ liệu quốc gia.

Người “nhạc trưởng” ở đây phải là cơ quan quản lý Nhà nước có tầm nhìn chiến lược, biết xây dựng kế hoạch 5 năm, 10 năm, vừa lo “bữa cơm hôm nay” (tức là nhu cầu ngắn hạn), vừa tính cho “cuộc sống ngày mai” (tức là phát triển dài hạn). Cũng giống như người chủ gia đình phải biết cân đối, ưu tiên, giám sát, khích lệ để mọi thành viên cùng phát huy năng lực và tạo ra giá trị lớn nhất cho xã hội.

- Ông kỳ vọng thế hệ bác sĩ trẻ sẽ tiếp cận lĩnh vực này ra sao để bên cạnh chuyên môn vững vàng, họ còn có khả năng đánh giá chi phí hiệu quả, quản lý tốt nguồn lực và đưa ra quyết định vì lợi ích của người bệnh?

Tôi luôn nói với học trò rằng kinh tế y tế là một công cụ, ai hiểu và biết vận dụng nó thì sẽ làm nghề hiệu quả hơn.

Trong giảng dạy, chúng tôi chia nhận thức thành sáu cấp độ: biết - hiểu - vận dụng - phân tích - tổng hợp - sáng tạo. Với các bác sĩ lâm sàng, tôi chỉ cần họ đạt đến hai cấp đầu tiên: biết và hiểu. Nghĩa là biết kinh tế y tế là gì, hiểu được các khái niệm cơ bản như chi phí, hiệu quả, chất lượng dịch vụ, và quyền lợi người bệnh. Khi hiểu điều đó, họ sẽ có tư duy cân nhắc trong từng quyết định kê đơn, chỉ định cận lâm sàng hay sử dụng thuốc, để vừa đúng chuyên môn, vừa hợp lý chi phí cho người bệnh.

Còn với những người làm quản lý hay học viên cao học, tôi yêu cầu họ đạt mức vận dụng - biết áp dụng kiến thức để phân tích, ra quyết định, viết luận văn, xây dựng chính sách. Còn các nhà nghiên cứu chuyên sâu thì phải đạt mức chuyên gia, tức là có thể tổng hợp, đánh giá và phản biện chính sách y tế.

Điều tôi kỳ vọng nhất là mỗi bác sĩ trẻ, dù làm ở đâu, đều hiểu rằng, phục vụ người bệnh không chỉ là kỹ năng chuyên môn, mà còn là trách nhiệm quản lý nguồn lực xã hội. Khi biết đặt câu hỏi “hiệu quả ở đâu?”, “công bằng cho ai?” trong từng hành động, họ sẽ trở thành những người thầy thuốc vừa giỏi nghề, vừa có tầm nhìn bền vững với nghề.

- Xin cảm ơn PGS.TS Vũ Xuân Phú về cuộc trò chuyện!

anh15.jpeg
Phó Tổng biên tập phụ trách, điều hành Tạp chí Khoa học phổ thông, Nhà báo Bùi Hương (bên trái) cùng PGS.TS Vũ Xuân Phú, Phó Giám đốc Bệnh viện phổi Trung ương.

PGS.TS. Vũ Xuân Phú hiện là Phó Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, Phó Trưởng Ban Điều hành Chương trình Chống Lao Quốc gia, và Giám đốc Trung tâm Đào tạo - Chỉ đạo tuyến. Ông là chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Kinh tế Y tế, Quản lý bệnh viện và Y tế công cộng, được phong học hàm Phó Giáo sư Y học năm 2012.

Tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Đại học Y Hà Nội, ông tiếp tục học Thạc sĩ Kinh tế Y tế tại Đại học Chulalongkorn (Thái Lan) và Tiến sĩ Y học tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, đồng thời có Cử nhân Quản trị Doanh nghiệp và Cao cấp Lý luận Chính trị - Hành chính.

PGS.TS. Vũ Xuân Phú đã chủ trì và tham gia hơn 17 đề tài nghiên cứu khoa học, xuất bản 14 cuốn sách, hướng dẫn hàng chục học viên cao học, và công bố 56 bài báo khoa học, trong đó có các công trình quốc tế.

Với nhiều đóng góp cho ngành y, PGS.TS. Vũ Xuân Phú được phong tặng danh hiệu Thầy thuốc Ưu tú, Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, 11 Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Y tế, cùng nhiều kỷ niệm chương “Vì sức khỏe nhân dân”.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Người thầy mặc áo blouse trắng
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO