BV An Sinh chuẩn hóa hệ thống chẩn đoán hình ảnh chuyên sâu và đồng bộ
BV An Sinh đã trang bị đồng bộ các thiết bị chẩn đoán hình mới nhất; hỗ trợ bác sĩ chẩn đoán nhanh, chính xác; tích hợp dữ liệu thông tin sức khỏe và kết nối qua mạng.
Từ đó góp phần quan trọng trong tất cả giai đoạn và quá trình chăm sóc y tế từ khám sàng lọc, chẩn đoán, tiên lượng và điều trị, đến theo dõi sau điều trị tại bệnh viện cũng như chuyển tới bệnh viện tuyến trên.

Chẩn đoán hình ảnh: Thăm dò chuyên sâu và ít xâm lấn
Bạn hãy thử tưởng tượng, BSCKI Lưu Hồng Sơn, Trưởng khoa Chẩn đoán Hình ảnh, BV An Sinh, chia sẻ về một trường hợp bệnh nhân nữ 40 tuổi đến Khoa Phụ Sản, Bệnh viện An Sinh, để khám vì mất kinh 4 tháng. Ở tuổi này, triệu chứng mất kinh khiến người phụ nữ lo âu và căng thẳng vô cùng.
BSCKII Nguyễn Ban Mai, Khoa Phụ Sản, BV An Sinh, đã chỉ định bệnh nhân làm siêu âm phụ khoa qua ngả âm đạo. Từ kết quả siêu âm, BSCKI Nguyễn Thị Thúy của Khoa Chẩn đoán Hình ảnh, phát hiện nghi ngờ có khối u khu trú trong buồng trứng, với đường kính khoảng 22mm. Các bác sĩ đã hội chẩn và cho bệnh nhân chụp cộng hưởng từ (MRI).
Trên kết quả cộng hưởng từ, các bác sĩ phát hiện đó là một khối u buồng trứng giai đoạn sớm, phân loại O-RADS 4 tức là nguy cơ ung thư cao. Bên cạnh đó, các xét nghiệm khác như xét nghiệm máu cũng hướng nhiều đến nguy cơ ung thư buồng trứng sớm vì có liên quan đến nội tiết. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt trọn khối u. Sau khi mổ bệnh nhân có kinh trở lại ngay, chu kỳ kinh đều đặn.

Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hiện nay như MRI, CT có khả năng phát hiện những tổn thương rất nhỏ (vài mm) đã hỗ trợ rất quan trọng cho các bác sỹ lâm sàng, giúp chẩn đoán sớm và quyết định phương pháp điều trị phù hợp, cải thiện chất lượng điều trị, nâng cao chất lượng sống và sự hài lòng của người bệnh.
Với những chỉ định hợp lý trong chẩn đoán hình ảnh, bệnh nhân nói trên được phát hiện sớm và điều trị hiệu quả, tránh những cuộc mổ lớn phải cắt bỏ toàn bộ buồng trứng, thậm chí cả tử cung.
Theo BS Hồng Sơn, BV An Sinh (TP.HCM) vừa trang bị hệ thống chụp cộng hưởng từ (MRI) của Mỹ kết hợp hệ thống tái tạo hình ảnh AIR-Recon-DL giúp thời gian chụp chỉ còn ½ so với thông thường trong khi vẫn giữ được chất lượng hình ảnh. Hơn một tháng hoạt động, khoảng 250 ca được chỉ định chụp MRI.
“MRI có lợi thế là không bị ảnh hưởng của tia xạ như một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác nhưng thường thời gian chụp lâu hơn. Ví dụ như ca bệnh nhân nữ nói trên, để có chất lượng hình ảnh đạt yêu cầu, thời gian chụp MRI mất đến hơn 20 phút. Tuy nhiên, trên hệ thống MRI mới này, nhờ công nghệ AIR- Recon-DL, thời gian chụp giảm 50%, còn 10 - 12 phút, giúp truy xuất hình ảnh nhanh hơn, mà chất lượng hình ảnh vẫn đảm bảo độ phân giải ngang bằng hoặc cao hơn, sắc nét hơn so với những hệ thống trước.” BSCKI Lưu Hồng Sơn cho biết.
Khoa Chẩn đoán hình ảnh được trang bị hệ thống/thiết bị chẩn đoán đồng bộ
Bên cạnh đó, Khoa Chẩn đoán hình ảnh, BV An Sinh, được trang bị đồng bộ các thiết bị mới nhất từ các hãng nổi tiếng có uy tín hàng đầu trên thế giới như GE, Philips, Siemen… thuận lợi cho việc sử dụng và kết nối qua mạng.

Các máy siêu âm màu 4 chiều, siêu âm tim và mạch máu; máy CTScan đa lát cắt; máy chụp nhũ ảnh; máy X-quang C-Arm; máy đo mật độ xương; máy X-quang kỹ thuật số trực tiếp (Swissray); đáp ứng các nhu cầu chẩn đoán bệnh lý của tất cả các chuyên khoa trong bệnh viện.
Trong đó, máy chụp X-quang kỹ thuật số trực tiếp (DR) thế hệ mới (Swissray) có thể chụp bệnh nhân ở mọi tư thế, thời gian chụp cực nhanh (5 giây) với liều phóng xạ thấp nhất (dưới 1 mas) nhưng cho chất lượng hình ảnh cao nhất. Máy được thiết kế ưu việt để có thể chụp các kỹ thuật đặc biệt như: Khảo sát hình thái và chức năng hệ niệu (UIV); chụp tĩnh mạch (Venography); chụp hình tử cung vòi trứng (HSG); chụp hình tuyến nước bọt (Sialography)…
“Với các thiết bị siêu âm hiện đại, các bệnh lý hay gặp đặc biệt là ở phụ nữ như tuyến giáp, tuyến vú, gần như siêu âm giải quyết và phát hiện rất tốt, đến hơn 95% các bệnh lý (tuyến giáp). Siêu âm đóng góp đến 80% tầm soát và chẩn đoán các bệnh lý liên quan đến tuyến vú; 20% còn lại chúng ta có thể dùng đến nhũ ảnh. Nhũ ảnh sau tuổi 40 có thể chụp mỗi 2 - 3 năm một lần, trong khi đó siêu âm có thể được thực hiện mỗi 3 tháng hoặc 12 tháng, nhẹ nhàng” BS Hồng Sơn cho biết thêm.
Dù đã có những kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh cao cấp như CTscan hay MRI, siêu âm tổng quát vẫn là một trong những phương pháp cận lâm sàng phổ biến nhất. Người dân muốn kiểm tra sức khỏe định kỳ hay vào viện vì có vấn đề về sức khỏe, siêu âm là phương pháp tầm soát đầu tay nhiều lĩnh vực, chi phí rẻ cũng như ít gây ra các chất phóng xạ ảnh hưởng đến sức khỏe.
Ví dụ như siêu âm tổng quát gần như kiểm tra được gần như tất cả bộ phận trong cơ thể như tử cung, buồng trứng, tuyến giáp, tim… Đặc biệt, vùng bụng thường hay nhiều bệnh hay nhiều bệnh lý cần cấp cứu như đau ruột thừa, viêm túi mật, viêm phần phụ, viêm ruột, sỏi thận… Siêu âm rất hiệu quả trong tìm kiếm các bệnh lý ấy, đặc biệt nhóm trẻ em, phụ nữ cũng như thai phụ.
Các bác sĩ siêu âm cứng tay nghề, nhiều kinh nghiệm có thể giúp chẩn đoán ra tới 80% bệnh lý. Cho đến hiện nay, chưa có một phương pháp nào có thể “thay thế” hoạt động siêu âm như siêu âm tim (trừ CTScan động mạch vành), siêu âm thai sản, siêu âm tổng quát nhi.BSCKI Lưu Hồng Sơn
Trưởng khoa Chẩn đoán Hình ảnh, BV An Sinh
Có thể nói rằng, khi đi khám bệnh, các kết quả chẩn đoán hình ảnh chiếm khoảng 80% dữ liệu trong hồ sơ y tế. Lợi ích chính của chẩn đoán hình ảnh là cho phép thăm dò chuyên sâu hạn chế xâm lấn vào bên trong cơ thể.
Đối với nhiều bệnh lý, bác sĩ lâm sàng có thể định hướng nhưng cần các chuyên khoa chẩn đoán hình ảnh hay nội soi hoặc xét nghiệm để đưa ra các bằng chứng khách quan, xác định chính xác bệnh và đưa ra các phương án điều trị phù hợp. Còn đối với các trường hợp khám sức khỏe định kỳ, các kết quả cận lâm sàng như chẩn đoán hình ảnh sẽ giúp người bệnh theo dõi sức khỏe, tầm soát bệnh lý một cách nhẹ nhàng với chi phí hợp lý.

Trong xu hướng hội nhập với công cuộc chuyển đổi số đang phát triển mạnh mẽ trong đó lĩnh vực y tế, BV An Sinh đã và đang nỗ lực không ngừng đầu tư cho tri thức, đội ngũ nhân sự và cho cả hệ thống thiết bị chẩn đoán hiện đại và đồng bộ.
Tất cả dữ liệu thông tin sức khỏe bao gồm dữ liệu chẩn đoán hình ảnh được tích hợp và lưu giữ đầy đủ trên hệ thống PACS có kết nối với Bệnh án điện tử (EMR) của BV An Sinh và sổ sức khỏe điện tử của bệnh nhân, kể từ lúc người mẹ mang thai cho đến khi trưởng thành.
Quá trình theo dõi sức khỏe luôn được liên tục, thực sự hữu ích cho việc thăm khám, chẩn đoán và điều trị bệnh lý chuyên khoa ở nhiều bệnh viện khác nhau trong và ngoài nước.
Hiện nay, kỹ thuật cộng hưởng từ MRI được chỉ định để chẩn đoán ở rất nhiều chuyên khoa khác nhau:
- Tình trạng não và tủy sống như bệnh đa xơ cứng (MS), đột quỵ, phình động mạch não, khối u, chấn thương đầu, rối loạn tủy sống hoặc các bệnh lý bắt nguồn hoặc ảnh hưởng đến não và tủy sống.
- Ung thư hoặc khối u bất thường ở các cơ quan như gan, lá lách, tuyến tụy, tử cung, buồng trứng, thận, tuyến tiền liệt, đường mật, bàng quang, đường tiêu hóa,...
- Các vấn đề về cấu trúc tim và mạch máu tổn thương do đau tim hoặc bệnh tim, tắc nghẽn mạch máu, viêm màng ngoài tim,
bệnh tim bẩm sinh, chứng phình động mạch và các vấn đề về tim khác.
- Các bệnh đường tiêu hóa như bệnh Crohn hoặc viêm loét đại tràng.
- Các bệnh về gan như xơ gan.
- Các vấn đề khớp như chấn thương, khối u, viêm, nhiễm trùng.
- Tầm soát ung thư vú cho những phụ nữ có nguy cơ cao bị ung thư vú.
- Đánh giá đau vùng chậu ở phụ nữ do u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung,…
MRI đặc biệt hữu ích cho các tình trạng não và tủy sống. MRI có thể phân biệt khối u với các mô bình thường, giúp quan sát kích thước, mức độ nghiêm trọng và sự lây lan của ung thư.
Ngoài ra, MRI luôn được mở rộng về phạm vi và mục đích sử dụng cho nhiều bệnh lý khác nhau