Y học

Thuyết thủy hỏa và bài thuốc bát vị, lục vị của Hải Thượng Lãn Ông

BS.CKII Huỳnh Tấn Vũ - Bệnh viện ĐH Y Dược TP.HCM, Cơ sở 3 30/01/2025 17:53

Mọi thứ trong trời đất dù vô hình, hữu hình đều do vận động của trời đất mà có, hay nói cách khác là do có sự giao hợp giữa khí trời và khí đất. Khí trời là dương, trong khí trời có cả ảnh hưởng của mặt trời. Đất là âm, trong khí đất có cả hơi nước.

Khí trời, khí đất là khí vô hình; ánh lửa, hơi nước là khí hữu hình. Vì thế khi nói là khí âm dương là đã có sự trung hòa lẫn nhau giữa khí và chất.

Thủy - hỏa trong thiên nhiên

Khí là dương, chất là âm. Trong chất là âm có ánh lửa thuộc dương, hơi nước thuộc âm, trong khí dương có khí trời thuộc dương, khí đất thuộc âm. Đó là trong dương và âm đều có âm dương.

Nội kinh viết: Trời đất lấy hai khí âm dương mà hóa sinh muôn vật. Con người lấy hai khí âm dương mà nuôi sống mọi nơi. Trời đất hóa dục muôn vật đều phải do sự xâm nhập của khí âm dương trong bốn mùa, rồi mới có thể phát triển được công năng: sinh trưởng, thu, tàng; để làm chung thủy cho muôn vật.

dat-troi-am-duong-thuy-hoa.jpg
Thanh dương là trời, trọc âm là đất, khí đất bốc lên thành mây, khí trời giáng xuống thành mưa, mưa làm ra bởi địa khí, mây làm ra bởi thiên khí. Ảnh minh họa

Thủy là nước, chỗ nhiều nước nhất là biển; gốc của nước là mặn. Nước còn có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ khác nhau: nước thể lỏng, hơi, mây, mù, sương, mưa, tuyết, nước trong đất, nước ở trong động vật và thực vật. Nước ở trong không gian: sông, ngòi, suối...

Hỏa là lửa, chỗ có nhiều lửa nhất là mặt trời. Lửa có nhiều dạng khác nhau, ở nhiều chỗ khác nhau: lửa mặt trời, lửa trong lò, trong lòng đất, trong sấm, chớp... Thủy hỏa luôn có hai mặt đối lập nhau về thể, tính, năng, dụng.

Nội kinh viết: "Thanh dương là trời, trọc âm là đất, khí đất bốc lên thành mây, khí trời giáng xuống thành mưa, mưa làm ra bởi địa khí, mây làm ra bởi thiên khí". Đã nói rõ khí âm dương có "hô giao" rồi sau mới thành được cái biến hóa nay lên mưa xuống, để hóa sinh ra muôn vật.

Ta thấy mọi sự sống đều phải nhờ có mặt trời, có nước. Nếu chỉ có mặt trời mà không có nước, tất cả sẽ bị đốt khô hoặc nếu chỉ có nước mà không có mặt trời, tất cả tối tăm lạnh lẽo, làm gì có sự sống được.

Thủy hỏa trong con người

Trong cơ thể con người, làm nền sự ôn dương gọi là dương khí, làm nền sự nhu dưỡng gọi là âm huyết. Dưỡng khí, âm huyết luôn luôn tồn tại và hỗ căn lẫn nhau, hai mà một, một mà hai. Đó là sự hiện hình của âm dương, cũng là thực thể của thủy hỏa giao hợp với nhau trong nhân thể.

Thủy hỏa tiên thiên là nguồn gốc sinh ra con người. Từ nam giới (dương) và nữ giới (âm), có giao hợp, mới sinh được con cái. Âm dương có giao nhau, thủy hỏa mới tụ lại, bốn thứ ấy hợp lại là một gọi là giao khí - thứ khí có từ ban đầu gọi là nguyên khí, cũng gọi là bẩm khí tiên thiên...

Chính vì có âm dương; thủy hỏa giao hòa lẫn nhau mà thể ôn của người ta là 370C. Mỗi khi âm, dương; thủy, hỏa mất cân bằng, thể ôn của người sẽ thay đổi và khi không còn thể ôn nữa là chết. Thủy hỏa trong bẩm khí tiên thiên gọi là chân thủy, chân hỏa.

dat-troi-vao-xuan-anh-minh-hoa.jpg
Toàn bộ nhân thể không ra ngoài hai chữ âm dương tức là thủy với hỏa, mà hai chữ thủy hỏa tức là khí huyết

Chân tức là khí chân nhất (chân là thực, nhất là một, một là số bắt đầu và tạo nên mọi số), mọi sự hóa sinh của con người đều bắt nguồn từ khí chân nhất ấy, đó là nguồn gốc của mọi hoạt động sinh lý. Chân thủy, chân hỏa là thủy hỏa vô hình, tuy là vô hình nhưng luôn luôn tồn tại trong cái hữu hình và thể hiện ra cái hữu hình. Cho nên chúng ta có thể biết được nó bằng cách theo dõi diễn biến của nó ở cái hữu hình.

Ví dụ: Thủy suy không giữ được hỏa - hỏa bốc lên: có biểu hiện: có bốc nóng, nhức đầu, hoa mắt, đỏ mặt, nóng ngực, khó thở, tim đập nhanh... Hoặc hỏa suy - thiếu sự ôn dương, có biểu hiện: người lạnh, chân tay lạnh, ăn uống chậm tiêu, đầy bụng, ỉa lỏng, người mệt mỏi, sợ lạnh...

Người ta vì có chân thủy, chân hỏa trong bẩm khí tiên thiên nên trong cơ thể mới luôn luôn có sự ôn dưỡng và nhu dưỡng. Nhưng để thực hiện việc ôn dưỡng và nhu dưỡng khí với huyết chứ không phải chân thuỷ, chân hoả. Chân thủy, chân hỏa là cái gốc bẩm sinh từ tiên thiên mà do thận làm chủ.

Cho nên khi nói đến khí là có sự liên hệ đến hỏa đến dương; khi nói đến huyết là có sự liên hệ đến thủy đến âm. Hải Thượng Lãn Ông nói; "Toàn bộ nhân thể không ra ngoài hai chữ âm dương tức là thủy với hỏa, mà hai chữ thủy hỏa tức là khí huyết".

Học thuyết thủy hỏa trong điều trị bệnh với bài thuốc Bát vị và Lục vị

Đây là học thuyết do Hải Thượng Lãn Ông, danh y nước ta thế kỷ XVIII, xây dựng nên. Trên cơ sở đó Ông đưa ra phương pháp trị liệu "Giáng tâm hỏa, ích thận thủy" làm phương châm điều hòa 2 quá trình "thủy hỏa", lập lại cân bằng âm dương, làm tiêu tán bệnh tật.

Với phương châm đó Hải Thượng Lãn Ông đã sử dụng thành công 2 bài thuốc cổ phương: lục vị và bát vị để bổ thủy, bổ hỏa; đồng thời ông là người đã sử dụng pháp biến phương tinh thông từ bài thuốc này để điều trị hơn 50 chứng và bệnh.

bat-vi.jpg
Hải Thượng Lãn Ông là người đã hoàn thiện học thuyết thủy hỏa và ông đã sử dụng 2 bài thuốc "lục vị" và "bát vị" và biến phương của nó một cách tinh thông để điều chỉnh lại sự mất thăng bằng âm dương thủy hỏa, nguyên nhân của các chứng bệnh.

Ông nói: "Nhà y mà không hiểu rõ chân tướng của tiên thiên thái cực, không nghiên cứu tác dụng thần diệu của thủy hỏa vô hình mà không thể trọng dụng được những bài thuốc hay như lục vị, bát vị làm thuốc còn thiếu sót hơn một nửa".

Tất cả bệnh tật của con người, chưa có bệnh nào là không có âm dương mất cân bằng; thủy hỏa thiên lệch. Cho nên việc điều trị phải đạt được điều hòa âm dương thủy hỏa đến mức thăng bằng mới thôi.

Hải Thượng Lãn Ông là người đã hoàn thiện học thuyết thủy hỏa và ông đã sử dụng 2 bài thuốc "lục vị" và "bát vị" và biến phương của nó một cách tinh thông để điều chỉnh lại sự mất thăng bằng âm dương thủy hỏa, nguyên nhân của các chứng bệnh.

Theo Hải Thượng Lãn Ông: "Chữa bệnh nặng không biết đến thủy hỏa, chữa bệnh nhẹ mà không biết đến khí huyết, cũng như trèo cây tìm cá".

Thông thường để bổ âm, củng cố chân thủy khuyên nên dùng lục vị. Còn để bổ nguyên khí, củng cố chân hỏa của thận (nhất là những người hỏa lực yếu hoặc thủy không thăng, hỏa không giáng) dùng bát vị. Với những người mà bệnh âm dương đều hư yếu nên dùng bài "thập bổ hoàn" để không thiên lệch.

te-luc-vi-te-bat-vi.jpg

Nguyên văn hai bài thuốc lục vị, bát vị như sau:

* Bài thuốc Bát vị quế phụ: Thục địa 8 chỉ, hoài sơn 4 chỉ, sơn thù 4 chỉ, đan bì 3 chỉ, trạch tả 3 chỉ, bạch linh 3 chỉ, quan quế 1 chỉ, phụ tử 1 chỉ.

Chủ trị: Chân thận hỏa hư, chân thủy vượng làm cho mỏi mệt. Hạ bộ hàn lãnh, đau lưng, mỏi gối, lưng lạnh, đái đêm nhiều. Đại tiện phân lỏng, bần thần nặng đầu, hay quên, lừ đừ, ngái ngủ.

Bài thuốc tồn tại cho tới ngày nay đã hơn 2000 năm. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác khi xưa đánh giá rất cao bài bát vị và đã dùng bài thuốc này chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Ông dùng bài “bát vị” làm xương sống, căn cứ vào chứng mà gia giảm.

Sau đây là phép gia giảm của Hải Thượng Lãn Ông: Tạng thận yếu mà đi lị lâu tăng vị thang ma, phá cố chỉ đều 2 chỉ (2 chỉ = 3,75g). Mạch xích 2 bên hồng mà sác là chân âm kém, bội quế, phụ tử lên 2 chỉ. Mạch bổ bên trái vô lực là khí, tạng can suy nhược, bội sơn thù lên 3 chỉ. Mạch bổ quan bên phải vô lực là tỳ vị hư yếu, bội phục linh, trạch tả lên 2 chỉ. Hỏa dạ dày quá mạnh mà thành hoàng đản, sốt về chiều, miệng lở, chóng đói, bội mẫu đơn.

Khí dạ dày yếu mà lạnh (hư hàn), đầy trướng, sôi bụng bội phục linh, trạch tả lên 2 chỉ, lại bội quế, phụ tử thêm 1 chỉ. Dương suy, tinh kém thêm lộc nhung, tử hà sa. Tạng thận yếu không đem được nguyên khí về chỗ, đi tiểu nhiều, thở suyễn, nôn ọe bội ngũ vị tử, ngưu tất.

* Bài Lục vị: Trương Trọng Cảnh dùng bài “bát vị” nhưng bỏ đi 2 vị quế và phụ tử. Còn lại 6 vị gọi là bài “lục vị”. Bài thuốc: Hoài sơn 4 chỉ, thục địa 8 chỉ, sơn thù 4 chỉ, đan bì 3 chỉ, trạch tả 3 chỉ, bạch linh 3 chỉ.

Chủ trị: Thận thủy suy kém, tinh khô, huyết kiệt đau lưng, mỏi gối, di tinh, khát nhiều, đái rắt, can thận suy yếu, hoa mắt, chóng mặt, phát sốt, nóng âm, da, tóc khô xỉn, mắt mũi nám đen, lưỡi khô ráo khát.

Theo quan niệm của YHCT, thận là tinh hoa của ngũ tạng. Thận là nơi tàng chứa tinh mà chủ về xương. Thận là tạng của thủy hỏa, chân âm và chân dương đều ở đó. Thân âm và thận dương tuy là hai mặt đối lập nhau nhưng luôn luôn có sự hỗ trợ qua lại lẫn nhau nhằm duy trì công năng của thận.

Thận âm rất dễ bị tổn thương do tửu sắc vô độ. Ngoài ra, chế độ dinh dưỡng thiếu chất, tuổi cao, sự lao tâm và lao lực quá mức đều là những yếu tố tác hại rất lớn cho thận âm.

Thận âm hư tổn (còn được gọi là thận âm bất túc) sẽ được biểu hiện bằng các triệu chứng hết sức đa dạng như chóng mặt, ù tai, thắt lưng và đầu gối mỏi yếu, cảm giác nóng âm ỉ trong xương (cốt chưng triều nhiệt), di tinh, mộng tinh, xuất tinh sớm, yếu sinh lý, tiêu khát (tiểu đường), mồm họng khô, đổ mồ hôi trộm, sốt về chiều, người nóng bứt rứt, táo bón, tiểu nóng gắt, nước tiểu sậm màu…

Đối với phụ nữ nhan sắc ngày càng tàn tạ, nóng nảy, các chứng trẻ em chậm biết đi, tóc mọc chậm, chậm biết nói…, phép gia giảm của Hải Thượng Lãn Ông: Người gầy đen, khô táo thêm thục địa, bớt trạch tả. Tính nóng nảy, hay cáu giận bớt sơn thù thêm đan bì, bạch thược, sài hồ mỗi vị 2 chỉ. Lưng mỏi thêm đậu trọng tẩm muối sao. Tì vị hư yếu, ăn ít mà ngoài da lại khô xỉn tăng hoài sơn. Chứng đại đầu thống (nhức đầu quá mạnh). Phụ nữ huyết khô, kinh bế, thiếu máu, xây xẩm ăn kém thêm xuyên quy, bạch chỉ mỗi vị 2 chỉ, quế tốt 1 chỉ. Chứng bạc đầu, rụng tóc thêm hà thủ ô 2 chỉ nhưng phải uống cho nhiều (vài chục thang) có thể hồi xuân. Mờ mắt thêm kỷ tử, cúc hoa, sài hồ, mỗi vị 2 chỉ.

Hải Thượng Lãn Ông nói: Tôi kinh nghiệm hằng 30 năm, chữa khỏi được nhiều bệnh trầm trọng, cũng chỉ căn cứ vào 2 khiếu âm và dương, cũng chỉ trông vào 2 bài “bổ thủy và bổ hỏa” (bát vị và lục vị) khác biệt với các thầy khác mà thôi! Vậy thủy hỏa là căn bản để sinh ra con người, nhưng thủy là chân của hỏa cho nên phải tương giao mà không lìa được nhau. Lại phải quân bình mà không bên nào được hơn lên.

Tính của hỏa bốc lên, phải đem trở xuống. Tính của thủy nhuận xuống, phải đem trở lên. Hỏa ở trên, thủy ở dưới gọi là tương giao tức thủy hỏa ký tế (nước và lửa đã làm xong việc). Hỏa ấy gọi là dương khí, thủy ấy gọi là âm khí, 2 bên cần phải có nhau, dựa vào nhau gọi là âm dương hòa bình.

Hải Thượng Lãn Ông nói rằng: Xem như thế mới biết bách bệnh đều bởi hư yếu mà ra. Mà hư yếu phần nhiều bởi tạng thận. Nội kinh nói: “Gặp chứng hư yếu phải bội tạng thận để giữ lấy mệnh môn”.

Nội kinh nói thêm: “Việc làm thuốc mà biết được yếu lĩnh thì mọi cái là xong. Không biết được yếu lĩnh thì man mác vô cùng!”. Hải Thượng Lãn Ông kết luận: “Đem phương pháp để chữa một bệnh suy rộng ra có thể chữa được bách bệnh. Mà phương pháp chữa được bách bệnh về căn bản cũng như chữa được một bệnh vậy!”.

Nói một cách đơn giản khi người lớn tuổi mà bàn chân lạnh dùng bát vị, còn bàn châm ấm, dùng lục vị đó là lẽ thường của người dùng thuốc! Còn nếu âm dương, khí huyết đều hư dùng bài thập toàn đại bổ là tốt nhất!

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Thuyết thủy hỏa và bài thuốc bát vị, lục vị của Hải Thượng Lãn Ông
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO