Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dứi sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Ở <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">Nam bộ, vào thế kỷ XVII, XVIII, cọp nhiều vô kể. Chúng sống rải rác khắp nơi, kể cả những nơi đã được khai hoang khá sớm, như Sài Gòn, Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long...
Cọp nhiều đến nỗi tác giả sách Gia Định thành thông chí phải thốt lên rằng: “Xứ này nhiều cá sấu và cọp dữ”. Cọp không chỉ ở tận rừng sâu mà còn lảng vảng quanh làng xã...
Thức ăn chủ yếu của cọp là heo rừng, nai và các loài ăn cỏ khác. Dần dần các con mồi của cọp tìm cách lẩn tránh, tản sang các địa bàn khác sinh sống. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thức ăn của cọp ngày càng trở nên khan hiếm, vì lẽ đó cọp mò về những nơi có dân cư sinh sống. Ở <_st13a_place w:st="on"><_st13a_country-region w:st="on">Nam bộ ngày nay còn lưu truyền nhiều địa danh liên quan đến cọp, như đìa Cứt Cọp (Bến Tre), rạch Ông Hổ (Tiền Giang)… Cũng trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết thêm: Vào giữa ngày tết năm 1771, cọp từ rừng Sác kéo về chợ Tân Kiểng, trên đường về Chợ Lớn, gây kinh hoàng cho dân chúng... Chính vì khiếp sợ nên ai cũng tìm cách diệt cọp. Nhưng diệt xong, người ta lại lập miếu thờ cọp!
Câu chuyện về “Cả Cọp”
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, công cuộc khai hoang lập ấp tại làng Hòa Tú, Sóc Trăng coi như đã hoàn tất, người dân nơi đây mới dựng chùa, lập miễu thờ Thành Hoàng ở giữa làng, hương khói quanh năm với niềm tin thần thánh sẽ phù hộ, độ trì cho dân làng được an cư lạc nghiệp. Việc cai quản và giữ gìn an ninh trật tự trong làng là trách nhiệm của Ban hội tề gồm mười hai vị hương chức, đứng đầu là hương cả, thường là người cao niên, học cao hiểu rộng, có uy tín với bà con. Ông hương cả đầu tiên của làng chỉ tại chức được vài ba tháng thì trong nhà xảy ra nhiều tai họa, hết vợ yếu con đau đến họ mạc mâu thuẫn, xích mích với nhau; cuối cùng, bản thân ông lâm bệnh rồi chết. Điều lạ lùng là người kế vị chức hương cả cũng chỉ tại chức trong thời gian ngắn rồi lâm nạn và qua đời. Ông hương cả thứ ba được cử lên thay thế cũng không tránh khỏi số phận các vị tiền nhiệm. Cảnh tai ương gây chết chóc cho các vị hương cả khiến cho mọi người lo lắng, bàn tán và nếu có được đề cử giữ chức hương cả thì họ đều sợ hãi khước từ. Vì vậy, trong làng suốt ba năm liền không có người đứng đầu.
Ngày trước, vùng đất hoang dã này có nhiều cọp sinh sống, khi dân làng đến khai khẩn, chúng bỏ vào sống trong khu rừng sâu, chỉ còn lại một con cọp ba chân sống quanh quẩn ở bìa rừng, không hại người nên người cũng không săn đuổi nó. Sau nhiều lần bàn bạc thảo luận, các vị lão làng quyết định cử… ông cọp ba chân vào chức hương cả! Thế là một ngôi miếu nhỏ trang hoàng theo hình thức tôn thờ vị thần nhỏ được dựng lên phía sau miếu Thành Hoàng. Nhân lễ cầu an trong làng, Ban hội tề làm lễ khánh thành ngôi miếu ông hổ đồng thời tổ chức lễ “tấn phong” ông hổ lên chức hương cả. (…) Trong nhiều năm liền, từ ngày ông hổ về nhận chức hương cả, mưa thuận gió hòa, cuộc sống của dân làng ngày càng khấm khá lên, khiến cho Ban hội tề và tất cả dân làng đều đặt niềm tin vào sự linh thiêng của “ông Cả Hổ”.
Truyền thuyết khác cũng không kém phần hấp dẫn:
Ở Bến Tre, từ khi lập làng, theo tục truyền thì hễ ai được cử làm hương cả đều bị bệnh chết. Do đó, suốt nhiều năm, không ai dám nhận chức ấy. Một năm nọ, có người can đảm nhận chức thì liền bị cọp vồ suýt mất mạng. Từ đó, hương chức trong làng bàn nhau, cử cọp làm hương cả. Hàng năm, làng phải cúng một đầu heo quay và viết một tờ cử, cuộn tròn, để trong một ống tre đặt ở hốc đá, nơi cọp đã vồ ông cả. Đúng lệ, năm nào, cọp cũng về ăn đầu heo. Về sau, sáu bảy năm liền, cọp không về, mới có một người tên Non nhận chức hương cả trở lại... Phải chăng vì thế ở <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">Nam bộ, không ai gọi con đầu lòng là anh Cả, mà gọi là anh Hai, vì sợ đụng chạm đến ông “Cả Cọp”.
Khi xưa, người dân ở đây có tục gọi cọp là “ông” và để tránh danh “cọp”, người ta gọi là “ông Ba Mươi”. Dân gian có tục lệ là vào ngày mồng ba tết Nguyên đán, sau khi cúng xong, người ta thường dán trước cửa nhà một mảnh giấy hồng điều có vẽ hình cọp với dòng chữ Hán “Sơn lâm đại tướng quân” với lòng mong muốn là “ông Ba Mươi” sẽ trấn giữ không cho những thứ độc hại vào nhà. Ông già, bà cả còn bảo nếu trẻ con khóc đêm thì người mẹ phải lén ăn trộm hình vẽ chúa sơn lâm để trong gối ngủ của đứa bé thì đứa bé sẽ hết khóc.
Chuyện Ông Tăng Chủ trị cọp
Tuy cọp được tôn sùng như thế, nhưng người dân vẫn săn bắt, đánh giết cọp, vì chúng đe dọa mạng sống của con người và để mở rộng địa bàn khẩn hoang.
Ở <_st13a_country-region w:st="on"><_st13a_place w:st="on">Nam bộ, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu chuyện nói về những người giỏi võ nghệ đánh cọp. Có thể kể: Bảy Giao, Chín Quỳ, ông Yến, ông Tăng Chủ… - những người bình thường nhưng giàu nghị lực và có lòng quả cảm quyết hy sinh thân mình để bảo vệ sự an toàn cho cộng đồng.
Ngày xưa, quãng đường từ Châu Đốc đến núi Sam còn là rừng rậm hoang vu, hiểm trở. Cọp, beo trong đó rất nhiều. Lúc bấy giờ có một số người đến đây phá rừng làm ruộng. Ban ngày, làm gì cũng phải có đông người, không ai dám đi riêng lẻ một mình, nhất là qua nơi cây cối rập rạp. Ban đêm phải ngủ trên chòi gác cao, cửa nẻo phải đóng kín. Dù vậy, vẫn có nhiều người bị cọp vồ, mất xác. Trong số người tới khẩn hoang có ông Tăng, tên thật là Bùi Văn Thân. Người trong vùng gọi ông là ông Tăng Chủ vì ông là một đồ đệ của Phật thầy ở Tây An, với đạo hiệu là Bùi thiền, Tăng Chủ.
Ông Tăng là người giỏi võ nghệ, vóc cao lớn, miệng rộng tay dài, tiếng nói sang sảng. Một lần nọ, cọp về xóm vào lúc chập tối, mọi người rúc lên gác đóng cửa kín mít, đánh mõ báo động vang trời. Ông Tăng một mình cầm mác trèo xuống thang rượt cọp. Dưới ánh trăng mờ mờ, cọp lao tới phủ lên mình ông. Ông lẹ làng chùng xuống, một tay dựng đứng mác thông lên, một tay thủ thế chờ cọp rơi xuống. Cọp hoảng hốt khi gặp tọa bộ của ông Tăng cùng với ánh sáng lấp lánh của ngọn mác thông, nó liền né sang một bên. Trong lúc cọp mất đà, chao mình lưng chừng, ông đấm lẹ vào hông nó một cú đấm thôi sơn rồi thuận chân bồi thêm vào hạ bộ nó một miếng đòn trời giáng. Cọp rống lên một tiếng vang trời rồi ngã lăn bất tỉnh. Ông Tăng không giết cọp, bước tới lôi nó dậy, miệng lẩm bẩm:
-“Tao tha cho, từ nay phải bỏ tánh ngang tàng đừng có đến đây nữa mà mất mạng!”. Cọp gằm mặt xuống đất, kéo lết cái chân què đi vào rừng, từ đó không dám bén mảng tới xóm nữa. Có người hỏi ông: “ Tại sao ông lại dưỡng hổ di họa, giết phứt nó đi cho mọi người nhẹ lo”. Ông trả lời: “Tôi không muốn sát sanh mà chỉ muốn dùng tâm để quy phục, cảm hóa thú dữ thôi”. Về sau, dân trong vùng còn thấy ông nhiều lần đánh cọp rồi tha cho chúng. Do vậy, lũ cọp không dám hoành hành như trước. Từ đấy về sau, người dân trong vùng đồn rằng ông là chúa tể của chúa sơn lâm ở vùng này. Một hôm, ông từ ngoài ruộng về, gần tới nhà thì trời tối, ông thấy một con cọp bạch đứng trước cửa. Nhìn kỹ, ông thấy mình mẩy nó ốm nhom. Cọp há miệng ra ngước mắt nhìn ông như cầu khẩn. Ông hỏi: “Làm gì mà bạch hổ đứng đây? À… chắc là bị mắc xương hả... Thôi, nếu mắc xương thì ngay cổ ra”. Cọp bạch gật đầu, ông bảo nó cúi xuống rồi co tay ấn vào cổ nó một cái. Lập tức nó sặc lên mấy tiếng rồi khạc ra một miếng xương lớn. Vài bữa sau, cọp cõng tới trước sân trại ông Tăng một con heo rừng mà nó vừa vật chết để đền ơn cứu mạng. Khi ông Tăng Chủ qua đời, người dân trong vùng xây mộ cho ông và lập miếu bạch hổ ở gần chùa Thới Sơn để nhớ ơn một vị ân nhân của làng.
TRẦN PHỎNG DIỀU