Y học

PGS.TS Nguyễn Huy Thắng: “Tôi bắt đầu từ giấc mơ xa vời!”

Minh Quang - Hoàng Quỳnh (thực hiện) 07/12/2025 - 18:31

Từng không dám ước mơ làm bác sĩ, rồi trở thành người tiên phong định hình chuyên ngành Đột quỵ Việt Nam, PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng đã chứng minh rằng y khoa thực nghiệm, tư duy logic và triết lý điều trị nhân văn không chỉ cứu người, mà còn đưa ngành Đột quỵ lên tầm cao mới...

1.jpg

Buổi sáng ở Bệnh viện Nhân dân 115 luôn trong không khí khẩn trương nhưng đầy trách nhiệm. Dọc hành lang khoa Bệnh lý Mạch máu não, những bước chân của đội ngũ y, bác sĩ nối nhau gấp gáp. Dù đã hẹn với PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng từ trước, chúng tôi vẫn phải chờ thêm một giờ vì ông đang hội chẩn gấp một ca vô gia cư bị đột quỵ vừa được chuyển đến. Ở nơi mà từng phút quyết định ranh giới sinh tử, sự ưu tiên ấy nói nhiều hơn bất cứ lời giới thiệu nào về con người này.

Ông là Trưởng khoa Bệnh lý Mạch máu não của Bệnh viện Nhân dân 115, chuyên gia hàng đầu về đột quỵ, người từng được trao Giải Cống hiến của Hội Đột quỵ Thế giới, đồng thời giữ nhiều trọng trách trong ngành như: Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam và Chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM. Nhưng đằng sau những danh vị đó là một hành trình dài nhiều lựa chọn táo bạo, nhiều khoảnh khắc nản lòng, và nhiều quyết định tưởng như “điên rồ” đã làm thay đổi tiêu chuẩn điều trị đột quỵ ở Việt Nam.

2.jpg

Không xuất thân trong gia đình có truyền thống ngành Y, con đường đến với nghề của chàng trai Nguyễn Huy Thắng bắt đầu hết sức tự nhiên, nhưng không thiếu khát khao. Chỉ bởi thời điểm ấy, “nhất Y, nhì Dược” là mặc định cho học sinh giỏi. Ông thích ngành Y, nhưng xem đó như một giấc mơ "cao quá tầm với". Ngày biết mình đậu đại học, ông đã “tự vả vào mặt” để tin rằng không phải đang mơ.

Học ngành Y với ông đòi hỏi một quá trình học tập nghiêm túc, liên tục, và gian khổ. Một người học ngành Y phải mất ít nhất 10 năm may ra có thể tự đứng trên đôi chân của mình. Bản thân ông, thời điểm ấy cũng chông chênh, không biết mình có chọn sai đường hay không.

7.jpg

Rồi khi bắt đầu hành nghề ở chuyên ngành Thần kinh, ông cảm thấy hụt hẫng! Cái thời điểm mà hầu hết người bệnh vào viện ở tình trạng liệt nửa người, rồi ra viện… vẫn liệt. So với tim mạch, nơi bác sĩ có thể kéo một người từ ranh giới tử vong trở lại cuộc sống bình thường sau vài phút can thiệp, chuyên ngành Thần kinh thời điểm ấy “tiến bộ rất chậm”, thậm chí việc chuẩn đoán xác định bản chất của đột quỵ (thiếu máu não hay xuất huyết não) cũng gặp nhiều khó khăn vì thiếu phương tiện.

“Ngày xưa đối diện với người bệnh đột quỵ, thầy thuốc chủ yếu chỉ điều trị hỗ trợ, không thể tác động trực tiếp vào diễn tiến bệnh. Do vậy, việc phục hồi hay không giống như chuyện “hên - xui”- ông nói rất thật. Chính cảm giác cứu người trong nguy cấp nhưng quá xa vời khi ấy khiến ông mang tâm lý chán nản. Nhưng cũng chính điều này đã trở thành mồi lửa để ông bắt đầu cuộc hành trình thay đổi tư duy và thay đổi cả cuộc đời nghề nghiệp của mình.

4.jpg

Âm ỉ trong tâm lý ấy, năm 2004 một cơ duyên xuất hiện khi ông biết thông tin về học bổng của Đại học Quốc gia Singapore dành cho nghiên cứu đột quỵ. Học bổng chỉ dành cho bác sĩ dưới 35 tuổi. Ông nộp hồ sơ, tự chuẩn bị, rồi sang Singapore học.

Singapore như một cú hích mạnh. “Qua Singapore tôi thấy, và tự đặt câu hỏi tại sao người ta làm khác mình như vậy? Những gì mà mình cảm giác không thể làm được cho người bệnh trước đây thì bây giờ mình thấy họ làm được quá tốt và lúc đó mình bị ngợp. Nó đã làm thay đổi hoàn toàn tư duy của tôi”, ông nói.

Thời gian ở Singapore ông được đào tạo và làm bác sĩ điều trị đột quỵ, được học các kỹ thuật mới, đặc biệt là kỹ thuật tiêu sợi huyết. Lúc đó ở Việt Nam cũng dùng kỹ thuật này vài ca nhưng cách dùng chỉ như đọc sách rồi tự làm, còn chưa bài bản. Chỉ sau 1 năm tu nghiệp ông chắc chắn rằng, đã tìm được con đường mình phải đi.

5.jpg

Khi đã nhen nhóm được tư duy mới, một cơ hội khác tiếp tục mở ra - đi Hoa Kỳ. Nơi duy nhất khi đó thực hiện kỹ thuật can thiệp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học. Để không bỏ lỡ, ông đưa ra quyết định táo bạo nhất đời mình: bán mảnh đất giá trị của gia đình ở Quận 8 mà không đắn đo. Bởi ông hiểu rất rõ, muốn được học từ những giáo sư đầu ngành giỏi nhất Hoa Kỳ thì phải trả giá, và sẽ định vị được “mình đang ở đâu so với họ?”

Ông ví việc tự học kỹ thuật điều trị cao qua sách vở như xem công thức làm bánh trên mạng, còn sang Hoa Kỳ là đứng cạnh đầu bếp nổi tiếng giỏi nhất, tận mắt chứng kiến họ làm từng động tác, từng quy trình.

Học tại những nước có nền y học hàng đầu cũng làm ông thay đổi hoàn toàn tư duy về nghiên cứu khoa học thực chứng và sau này trở thành niềm đam mê. Ông học được rằng nghiên cứu khoa học không phải để lấy cái bằng, mà để cứu được nhiều người. “Một bác sĩ giỏi có thể cứu 1.000 người bệnh một năm, nhưng một nghiên cứu thành công có thể cứu cả thế giới. Đó mới là di sản Y học”. Quan điểm ấy thổi bùng trong ông khát khao không ngừng học tập, nghiên cứu để đi xa hơn nữa.

6.jpg

Trở về Việt Nam với niềm đam mê mãnh liệt và những kỹ thuật chưa ai dám làm trong điều trị đột quỵ, bác sĩ Nguyễn Huy Thắng phải đối diện với câu hỏi thẳng thắn: “Liệu mình có dám làm không?”. Áp lực đè lên vai ông rất lớn. Thành công thì hiển nhiên, nhưng thất bại có thể trở thành gánh nặng.

May mắn, Ban Giám đốc Bệnh viện Nhân dân 115 trao cho ông sự tin tưởng tuyệt đối. Ekip của ông mạnh về tay nghề, và thứ còn thiếu chỉ là mô hình chuẩn. Ông trở thành người điều phối, tập hợp sức mạnh của đội ngũ, xây dựng quy trình từ những gì mình học được ở nước ngoài.

3.jpg

Từ đó, những dấu mốc tiên phong liên tiếp xuất hiện: “Thời điểm 2008 - 2009, thế giới không khuyến cáo làm can thiệp cho người bệnh, châu Á không làm can thiệp, lúc đó chúng tôi đã làm can thiệp thường quy. Đến 2012 chúng tôi can thiệp bằng dụng cụ dạng stent. Năm 2015, thế giới mới đưa vào khuyến cáo trong cửa sổ thời gian 8 tiếng. Năm 2018 chúng tôi mở rộng tiếp cửa sổ thời gian lên 24 tiếng cũng là nơi đầu tiên mà cho đến nay nhiều trung tâm ở Việt Nam vẫn chưa dám mở đến đến 24 tiếng và vừa rồi chúng tôi tiếp tục mở rộng cửa sổ thời gian đến ngoài 24 tiếng”, ông chia sẻ khiêm tốn nhưng đầy tự hào.

Trong điều trị đột quỵ, thời gian đầu là vàng, là sự sống. Khi quyết định mở rộng “cửa sổ thời gian”, ông biết rõ điều đó làm khối lượng công việc tăng gấp bốn lần, từ 400 ca can thiệp mỗi năm lên hơn 1.700 ca. Nhưng ông chấp nhận. Bởi nếu giữ cửa sổ trong 6 tiếng, hàng nghìn người bệnh sẽ bị bỏ lại.

11.jpg

Tất cả những điều đó đưa Bệnh viện Nhân dân 115 trở thành một trong những trung tâm điều trị đột quỵ lớn nhất Việt Nam, với con số ấn tượng: 20.000 người bệnh mỗi năm, tương đương 1/10 tổng số người bệnh đột quỵ toàn quốc. Ngay cả bác sĩ nước ngoài cũng không thể tin được với cơ sở vật chất còn hạn chế mà chữa gấp 10 lần các trung tâm lớn nhất của Hoa Kỳ.

Điều mà ông tự hào ở Bệnh viện nhân dân 115 không chỉ vì chữa 20.000 người bệnh, gấp nhiều lần chỗ khác, mà còn vì nơi đây là tập thể nhiệt huyết, luôn là một trong những đơn vị y tế đi đầu trong cả nước về các kỹ thuật chuyên ngành, và làm việc bằng trách nhiệm lương tâm không bỏ lại người bệnh phía sau.

9.jpg

Nếu khoa học gắn với thực tế điều trị là kim chỉ nam, thì triết lý nhân văn là mạch chảy mềm mại xuyên suốt cuộc đời nghề nghiệp của ông. Ông không bán cho người bệnh “bánh vẽ”, mà thẳng thắn về rủi ro bởi đột quỵ luôn tiềm ẩn bất trắc.

Sự nhân văn trong ông thể hiện rõ qua từng ca bệnh“còn hy vọng là còn chữa”, “cho họ cơ hội để sống”. Có những ca gần như cận kề cái chết nhưng chỉ cần thấy “tia sống” còn sót lại ông vẫn kiên trì điều trị và cho kết quả phục hồi ngoạn mục.

Trường hợp của chàng thanh niên trẻ tuổi bị đột quỵ, trải qua 2 lần can thiệp thất bại do mạch máu quá hẹp. Ông không chọn dừng lại. Bằng trái tim ấm áp, cùng cảm nhận nghề nghiệp tinh tường bác sĩ Thắng vẫn quyết định cùng ekip thực hiện ca can thiệp lần thứ 3 và kết quả người bệnh phục hồi trở lại ngoài sự mong đợi.

10.jpg

Ông cũng là người sẵn sàng điều trị cho người bệnh vô gia cư, không người thân, không khả năng chi trả dù chi phí một ca can thiệp điều trị có thể lên đến 60 - 70 triệu đồng, bởi ông tin điều trị kịp thời cho họ không chỉ là tinh thần nhân đạo mà còn tiết kiệm chi phí xã hội về lâu dài.

Ông cho rằng, nghề bác sĩ liên quan đến sức khỏe con người nên mọi quyết định bắt buộc phải dựa trên cơ sở khoa học; những gì có lợi cho người bệnh thì bắt buộc phải làm; không được làm hại ai, giữ đúng nguyên tắc đạo đức nghề Y - “Do no harm”.

8.jpg

Câu chuyện của PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng không chỉ là câu chuyện về một bác sĩ giỏi. Đó là hành trình của người không tự nhận mình là “tiên phong” nhưng mang trong mình lòng dũng cảm, sự quyết đoán rời vùng an toàn để theo đuổi chuẩn mực cao nhất của y khoa hiện đại. Và cũng là câu chuyện về một bác sĩ vừa có lý trí sáng của nhà khoa học thực chứng, vừa có trái tim ấm của người thầy thuốc không bao giờ quay lưng với người bệnh dù họ là ai, trong hoàn cảnh nào.

12.jpg

PV: Thưa bác sĩ, điều gì đã đưa ông đến với triết lý làm nghề dựa trên khoa học thực chứng, thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm?

Bước ngoặt lớn nhất đến khi tôi sang Singapore rồi đến Hoa Kỳ học. Ngay lập tức tôi nhận ra tư duy của họ và chúng ta khác nhau rất xa. Ở nước ngoài, sinh viên đã được tiếp cận nghiên cứu khoa học từ rất sớm, rất bài bản.

Chính tôi trước đây cũng không hiểu vì sao điều trị bệnh lại phải nghiên cứu khoa học. Như thể đi học thì bắt buộc phải nghiên cứu, nhưng không biết nghiên cứu để làm gì, để phục vụ điều gì, mình cảm giác lúc đó sao dư thừa thế!

quality_restoration_20250823192907389.jpeg

Y khoa không thể vận hành bằng cảm tính mà phải luôn chắc chắn thứ mình dùng cho người bệnh là an toàn. Đến nay tôi có hơn 100 bài báo khoa học phần lớn đăng ở các tạp chí uy tín ở nước ngoài.

Ngày nay, y học là thực chứng. Mỗi viên thuốc kê cho người bệnh, mỗi phác đồ điều trị đưa ra, mỗi chỉ định can thiệp tất cả đều phải dựa trên nghiên cứu. Ví dụ, có người nói lá đu đủ chữa được ung thư. Tôi không phủ nhận. Nhưng vấn đề là: liều lượng nào? Chế biến ra sao? Độc tính thế nào? Từ phát hiện ban đầu đến một viên thuốc an toàn phải mất ít nhất 10 năm nghiên cứu: thử nghiệm động vật, thử nghiệm nhóm nhỏ tự nguyện, nhóm lớn hơn, rồi mới có thể sử dụng.

Tôi không nghiên cứu để lấy thành tích. Tôi nghiên cứu vì đó là đam mê, và vì nó tạo ra giá trị thật. Một bác sĩ giỏi mỗi năm cứu được 1.000 người. Nhưng một nghiên cứu thành công có thể cứu cả thế giới.

PV: Từ những kiến thức tiếp thu được ở nước ngoài, ông đã tập huấn, đào tạo cho rất nhiều trung tâm đột quỵ trên khắp cả nước. Điều gì khiến ông dành nhiều tâm sức cho công việc này?

Đột quỵ là một chuyên ngành trẻ nhưng phát triển cực nhanh. Mỗi năm thế giới đều có cập nhật mới, kỹ thuật mới, bằng chứng mới. Đó chính là động lực khiến đội ngũ làm đột quỵ ở Việt Nam tiến bộ rất nhanh.

Tôi đi đào tạo vì một lý do rất đơn giản: nếu các trung tâm đều làm tốt, người bệnh sẽ được cứu ngay tại địa phương mà không cần chuyển tuyến. Như trước đây, người bị đột quỵ ở Đắk Lắk phải vào TP.HCM rất nguy hiểm. Còn bây giờ, một tỉnh như Đắk Lắk có tới ba trung tâm can thiệp, mỗi tháng tự làm hàng chục ca.

15.jpg

Từ Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang đến Cần Thơ rất nhiều nơi trước đây không nghĩ mình làm được, nay đều làm được. Tôi rất tự hào khi nhiều đồng nghiệp từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An… đã trở thành những người làm chủ kỹ thuật.

Tôi không gọi họ là “học trò”. Họ là đồng nghiệp. Và tôi còn vui hơn nếu họ giỏi hơn mình. Tre già măng mọc là quy luật. Một thế hệ mới giỏi hơn là điều ngành Y cần. Nếu ai đó giỏi thật sự mà mình lại cản họ, thì chính mình đang tạo ra một ký ức xấu cho họ. Tôi muốn truyền cảm hứng, chứ không tạo ra sợ hãi cho họ.

PV: Theo ông, muốn trở thành bác sĩ giỏi trong lĩnh vực đột quỵ thì cần những yếu tố cốt lõi nào?

Trước hết phải siêng năng, chịu khó học. Nhưng để vượt lên và tạo dấu ấn thì cần tư duy logic và năng lực nghiên cứu. Trong đột quỵ, tư duy logic cực kỳ quan trọng: logic về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh, logic khi kê thuốc và cá thể hoá điều trị cho từng người bệnh.

16.jpg

Điều quan trọng nữa, bác sĩ giỏi không phải người biết “làm lúc nào”, mà là người “biết khi nào phải dừng”. Tôi không thích bác sĩ kiểu lúc nào cũng “can thiệp” mà phải biết trường hợp nào nên làm và trường hợp nào nên dừng. Quyết định đúng đòi hỏi người bác sĩ kinh nghiệm và bản lĩnh.

Và nguyên tắc cuối cùng, tôi luôn khắc sâu không làm hại ai. Làm hại ở đây không phải cố tình, mà là khi bác sĩ làm một kỹ thuật chưa có bằng chứng khoa học, chưa chắc chắn, nhưng vẫn cố làm như vậy là gây hại. Còn nếu làm theo bằng chứng nhưng vẫn có rủi ro đó là rủi ro y khoa không thể tránh. Điều gì có lợi cho người bệnh chúng ta phải làm đến cùng, nhưng phải trên cơ sở khoa học.

PV: Sau khi nghỉ hưu, liệu ông có tiếp tục làm nghề?

Chắc chắn tôi vẫn làm. Nghỉ hưu không có nghĩa là dừng lại. Tôi có thể làm ở bệnh viện tư, nhưng bệnh viện tư ít cơ hội nghiên cứu. Cuộc sống phải cân bằng giữa tiền bạc và đam mê. Với tôi, đam mê lớn nhất vẫn là nghiên cứu khoa học, công bố quốc tế, giảng dạy, rồi mới đến điều trị.

Ngoài ra tôi còn công việc ở Hội Đột quỵ TP.HCM và Hội Đột quỵ Việt Nam. Công việc Hội cũng tốn rất nhiều thời gian, nhưng nó giúp tôi tiếp tục đóng góp cho sự phát triển chung của ngành.

Xin chân thành cảm ơn ông!

13.jpg

Minh Quang - Hoàng Quỳnh
(thực hiện)

Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
PGS.TS Nguyễn Huy Thắng: “Tôi bắt đầu từ giấc mơ xa vời!”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO