Đo điện kích gợi thính giác thân não (ABR)
Đo đáp ứng điện thân não khi kích thích thính giác là một nghiệm pháp trong nhóm thử nghiệm khách quan, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chức năng sau ốc tai. Nghiệm pháp này đo các điện thế xuất hiện sớm, khoảng 8 - 10 ms đầu trong điện thế thính giác ghi nhận được từ da đầu do hoạt động của các cấu trúc của cầu não.
Ở người trưởng thành, bình thường điện thế kích gợi thính giác thân não được ghi nhận có 7 sóng xuất hiện trong 10 ms đầu sau kích thích. Bảy sóng này được ký hiệu bằng số la mã từ I đến VII, các sóng I, II, III, IV và V thường xuất hiện ở người trưởng thành có sức nghe bình thường. Sóng VI xuất hiện 84% và sóng VII chỉ xuất hiện có 43% ở tai kích thích (OMKA, 1994).
Người bình thường cũng có nhiều dạng sóng khác nhau, sóng IV và V thường là thành phần nổi bật nhất.
Chẩn đoán xác định thường dựa vào sự thay đổi của một hay nhiều yếu tố. Trên thế giới, nghiệm pháp này bắt đầu được sử dụng nhiều từ thập niên 1970. Ở Việt Nam nghiệm pháp này được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1997. Từ khi thực hiện, chúng tôi đã giải quyết được một số vấn đề khó có thể làm trước đây như: chẩn đoán sớm thiếu hụt thính giác ở trẻ em nhỏ tuổi, trẻ chậm phát triển tâm thần và chẩn đoán vị trí tổn thương cho các bệnh nhân điếc tiếp nhận…
Hiện tại chúng tôi mới chỉ sử dụng máy đo ABR dùng cho tầm soát bệnh (screening ABR). Trong tương lai gần, chúng tôi sẽ đưa vào sử dụng máy ABR dùng cho chẩn đoán (diagnostic ABR) có khả năng cho biết mức độ điếc ở từng tần số, cũng như chẩn đoán phân biệt một số bệnh sau ốc tai.
Đo âm ốc tai (OAE)
Điếc bẩm sinh ảnh hưởng nặng nề đến quá trình phát triển ngôn ngữ tiếng nói cũng như ảnh hưởng đến phát triển tâm lý và trí thông minh của trẻ. Những nghiên cứu mới đây cho thấy các tác hại này có thể giảm tối đa nếu trẻ điếc được phát hiện và can thiệp sớm trước 6 tháng tuổi. Một trong các kỹ thuật tiên tiến được áp dụng để khám tầm soát sức nghe của trẻ là nghiệm pháp OAE.
Khi có kích thích âm, các tế bào tai ngoài chuyển động tạo ra âm truyền của tai. Âm này được đo ở ống tai ngoài. Âm truyền của tai này chỉ đo được khi tai giữa hoạt động bình thường, cơ quan corti trong điều kiện bình thường hoặc gần bình thường.
Trẻ sơ sinh, 12 giờ sau sinh đã có thể thử, tuy nhiên có 30 - 35% trẻ sẽ cho kết quả âm tính nếu thử trong ngày đầu tiên. Cần phải giải thích kỹ cho cha mẹ biết không phải kết quả âm tính nào cũng có nghĩa là con họ bị điếc. Trẻ đo trong trạng thái ngủ tự nhiên, một giờ sau ăn là tốt nhất. Không nên đo khi trẻ đang bú hoặc ngậm núm vú, vì tiếng động khi bú và khi nuốt sẽ cho kết quả âm tính.
Năm 2005 chúng tôi đã khám cho hơn 1.000 trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Hùng Vương và phát hiện 1 trường hợp điếc bẩm sinh nặng, 1 trường hợp khiếm thính một tai. Hiện tại chúng tôi đang phối hợp với Bệnh viện phụ sản quốc tế khám tầm soát điếc cho trẻ sơ sinh trước khi xuất viện.
Cấy điện ốc tai (CI)
Ốc tai điện tử là một thành tựu lớn trong y học, giúp cho những người điếc nặng và sâu nghe được. Kỹ thuật này trên thế giới đã thực hiện cách đây hơn 20 năm, đến nay đã có hàng chục ngàn người điếc trên thế giới được cấy ốc tai và kết quả rất tốt.
Ở Việt Nam, do giá tiền ốc tai điện tử quá đắt nên ca cấy ốc tai đơn kênh đầu tiên mới chỉ được thực hiện cách đây hai năm. Trước đó cũng có một số trường hợp gia đình vì quá bức xúc đã đưa con đi nước ngoài để mổ cấy ốc tai, nhưng những trường hợp này không những phải tốn chi phí rất cao (tiền máy, tiền mổ, nằm bệnh viện, khoảng 30.000 USD) mà còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề luyện nghe nói, và tốn kém tiếp tục cho những chi phí đi ra nước ngoài định kỳ để kiểm tra và hiệu chỉnh máy. Kỹ thuật này được thực hiện ở Việt Nam đỡ tốn kém tiền bạc cũng như thời giờ của bệnh nhân và gia đình rất nhiều.
Ốc tai điện tử: Có nhiệm vụ thay thế ốc tai thật, chuyển âm thanh thành những tín hiệu điện, những tín hiệu này kích thích các sợi thần kinh của tai trong giúp người điếc có thể nghe lại lời nói và âm thanh.
Các loại ốc tai điện tử: Có hai loại ốc tai điện tử chính: ốc tai điện tử đơn kênh và ốc tai điện tử đa kênh. Hãng sản xuất ốc tai điện tử đơn kênh thì cho rằng ốc tai của họ rẻ hơn nhiều và tác dụng cũng như ốc tai điện tử đa kênh, vì thế nếu sử dụng ốc tai điện tử đơn kênh thì số người điếc được cấy ốc tai sẽ tăng lên. Trong khi đó các hãng sản xuất ốc tai điện tử đa kênh thì cho rằng ốc tai điện tử đơn kênh chỉ nhận biết được âm thanh, muốn giao tiếp được người sử dụng ốc tai điện tử đơn kênh phải kết hợp nhìn hình miệng; còn ốc tai điện tử đa kênh được thiết kế phân bố các điện cực nhạy với độ trầm bổng của âm thanh như ốc tai người, vì vậy người điếc khi được cấy ốc tai điện tử đa kênh sẽ nghe được mà không cần phải kết hợp nhìn hình miệng người đối diện.
Đối tượng cấy điện ốc tai: Là người lớn hoặc trẻ em sinh ra đã điếc hoặc điếc sau sinh, và điếc này phải là điếc ốc tai đã từng sử dụng máy nghe mà không có kết quả.
Hiệu quả của cấy điện ốc tai: Hiệu quả đối với mỗi người một khác nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Thời gian điếc: Thời gian bị điếc càng ngắn thì kết quả càng tốt. Những người bị điếc đột ngột được cấy ốc tai trong vòng một tháng sau điếc có thể nghe và giao tiếp gần như thời gian trước bị điếc. Trẻ điếc trong bụng mẹ được cấy ốc tai trong khoảng hai đến ba tuổi là tốt nhất, những trẻ này có thể phát triển ngôn ngữ gần như trẻ nghe bình thường cùng lứa tuổi.
- Số tế bào thần kinh thính giác còn sót lại.
- Sự tiếp thu nhanh nhạy khác nhau của từng người.
Những đối tượng không phù hợp với cấy ốc tai:
- Những người điếc sử dụng máy nghe có hiệu quả.
- Những người điếc sâu quá lâu, dây thần kinh thính giác chưa bao giờ được kích thích.
- Điếc không phải nguyên nhân do ốc tai.
- Thần kinh thính giác bị hư hoặc không có.
- Những người không đủ sức khỏe chịu đựng cuộc phẫu thuật.
Với ốc tai điện tử đa kênh đời mới 24 điện cực, người được cấy sẽ nghe được các âm thanh hàng ngày xung quanh mình, đặc biệt là các âm thanh của giao thông như còi xe, còi báo động nhờ đó tránh được các tai nạn giao thông. Với thời gian, người được cấy ốc tai sẽ hiểu được lời nói không cần nhìn hình miệng, giọng nói cũng được tự chỉnh ngày một đúng hơn và vì thế sẽ giao tiếp tốt hơn.
Bệnh viện tai mũi họng TP.HCM là cơ sở đầu tiên của cả nước thực hiện cấy điện ốc tai cho bệnh nhân. Đến nay bệnh viện đã cấy được ba ca ốc tai điện tử đơn kênh và 12 ca ốc tai điện tử đa kênh với 24 điện cực. Ba trường hợp cấy ốc tai điện tử đơn kênh đều cấy ở tuổi 17 - 18, bị điếc mắc phải, thời gian điếc kéo dài từ 8 năm đến trên 10 năm. Cả 3 đều có thời gian mang máy nghe, sau đó máy nghe không còn tác dụng nữa, khoảng 3 - 4 năm cho đến lúc cấy. Trong 3 trường hợp có 1 trường hợp theo gia đình sang Mỹ, 1 trường hợp do Viện tai mũi họng tiếp tục theo dõi vì quê ở Thái Nguyên. Còn lại một trường hợp bệnh nhân nữ ở Nha Trang, sau khi được cấy ốc tai điện tử đơn kênh đã tiếp tục đi học (trước đó phải bỏ học một năm vì không nghe được) lớp 10 và hiện tại đang học Đại học xây dựng.
Trong 12 trường hợp cấy ốc tai điện tử đa kênh, 1 trường hợp điếc sau ngôn ngữ, trường hợp này có kết quả rất tốt, hiện bệnh nhân có thể giao tiếp qua điện thoại. Năm trường hợp cấy trong khoảng từ 2 đến 3 tuổi có em đáp ứng với âm thanh rất tốt, tuy nhiên kết quả học nói chưa rõ rệt vì thời gian mang máy chưa tới một năm. Ba em tuổi từ 5 - 6 có kết quả tốt, những em này sau thời gian cấy từ 6 tháng đến một năm đã có thể nói một số câu đơn giản. Ba em khác tuổi từ 12 đến 18 kết quả chưa rõ rệt. Tuy nhiên cha mẹ và cô giáo đều nhận thấy các em này có phản ứng với âm thanh nhạy hơn trước, nói nhiều hơn, và tiếng nói cũng khá hơn.
Đo điện động nhãn đồ bằng video
Điện động nhãn đồ được sử dụng để đánh giá lâm sàng bệnh nhân chóng mặt và rối loạn thăng bằng, cho một cách đánh giá khách quan các hệ thống vận nhãn và tiền đình.
Đo điện động nhãn đồ bao gồm 3 phần: đánh giá vận nhãn, các nghiệm pháp đo tư thế, kích thích nhiệt hệ thống tiền đình. So sánh các kết quả thu được từ các nghiệm pháp khác nhau của đo điện động nhãn đồ giúp xác định có rối loạn trung ương hay ngoại biên.
Từ tháng 6/2004, phòng tiền đình của bệnh viện đã được thành lập với hệ thống đo điện động nhãn đồ bằng video do Hãng Solvay tặng, đã khám được trên 500 lượt bệnh nhân, đo trên 200 lượt và tập tiền đình trên 100 lượt bệnh nhân. ó