Hội chứng Guillain - Barre: Kết hợp điều trị Y học cổ truyền và Y học hiện đại
Hội chứng Guillain-Barré là một bệnh viêm đa dây thần kinh cấp tính, thường tiến triển nhanh nhưng tự giới hạn, đặc trưng bởi yếu cơ và mất cảm giác nhẹ ở ngoại vi.
Trong khoảng 2/3 số bệnh nhân, hội chứng Guillain Barre thường khởi phát từ ngày thứ 5 đến tuần thứ 3 sau khi mắc một bệnh truyền nhiễm, phẫu thuật...
Hội chứng Guillain-Barre là bệnh do cơ thể tự sinh ra kháng thể chống lại vi-rút xâm nhập vào cơ thể nhưng có tình trạng dư thừa kháng thể dẫn tới làm tổn thương các dây và rễ thần kinh trong cơ thể. Nhiễm trùng là nguyên nhân thường gặp trên 50% bệnh nhân; mầm bệnh phổ biến bao gồm: Campylobacter jejuni, vi-rút đường ruột, Herpesviruses (bao gồm cả vi-rút Cytomegalo và Epstein-Barr), các loài Mycoplasma. Ở một số bệnh nhân, hội chứng Guillain-Barré đã phát triển sau khi nhiễm vi-rút Zika hoặc sau Covid-19.
Triệu chứng lâm sàng
Yếu do liệt mềm chiếm ưu thế ở hầu hết bệnh nhân mắc hội chứng Guillain-Barré; nó luôn nổi bật hơn các bất thường khác về cảm giác. Triệu chứng yếu cơ đối xứng và dị cảm thường bắt đầu ở hai chân và lan dần tới hai tay. Đôi khi các triệu chứng này lại bắt đầu ở hai tay hoặc đầu. Ở 90% số bệnh nhân, triệu chứng yếu cơ diễn ra nặng nhất ở tuần thứ 3 đến tuần thứ 4. Phản xạ gân xương bị mất. Thường không có rối loạn cơ tròn. Yếu cơ kéo dài trong một khoảng thời gian nhưng tình trạng nặng thường xảy ra trong một vài tuần, sau đó đỡ dần.
Cơ mặt và cơ hầu họng yếu trên 50% số bệnh nhân bị bệnh nặng. Bệnh có thể dẫn tới tình trạng mất nước và suy dinh dưỡng. Liệt hô hấp nặng đến mức phải đặt nội khí quản và thở máy xảy ra ở 20% số trường hợp.
Một vài bệnh nhân (có thể là trường hợp biến thể) có rối loạn chức năng tự động đe dọa đến tính mạng, gây ra sự biến động huyết áp, tăng tiết ADH không thích hợp khiến cơ thể người bệnh không thể đào thải nước ra bên ngoài (bị giữ nước) và nồng độ khoáng chất trong máu của bệnh nhân thấp, loạn nhịp tim, liệt ruột, bí tiểu, và một số thay đổi đồng tử.
Một thể bất thường khác (Thể Fisher, hội chứng Miller - Fisher) gây ra liệt cơ vận nhãn, thất điều, mất phản xạ).
Chẩn đoán hội chứng Guillain-Barré dựa trên đánh giá triệu chứng lâm sàng; các xét nghiệm về các bệnh lý truyền nhiễm và rối loạn chức năng miễn dịch, bao gồm xét nghiệm viêm gan và HIV và điện di protein huyết thanh; xét nghiệm dịch não tủy
Điều trị chuyên sâu hội chứng Guillain-Barré
Hội chứng Guillain-Barré là một bệnh cấp cứu, đòi hỏi phải theo dõi thường xuyên và hỗ trợ các chức năng sống, thường trong đơn vị hồi sức cấp cứu. Triệu chứng không thể gập cổ để nâng đầu khỏi giường cũng là một dấu hiệu nguy hiểm. Nó thường tiến triển đồng thời với liệt thần kinh chi phối cơ hoành.
Nếu gặp khó khăn khi uống, có thể truyền dịch tĩnh mạch để duy trì lượng nước tiểu tối thiểu từ 1 đến 1,5L/ngày. Cần tránh các chấn thương và áp lực đè nén tại tứ chi khi nằm trên giường.
Nhiệt trị liệu giúp giảm đau, tạo điều kiện tiến hành vật lý trị liệu. Không nên nằm bất động một chỗ vì có thể gây ra cứng khớp và co cứng cơ. Các bài tập thụ động hết tầm vận động khớp nên được bắt đầu sớm, ngay khi các triệu chứng cấp tính giảm dần. Heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) giúp ngăn ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu ở bệnh nhân nằm liệt giường.
IVIG (IV globulin miễn dịch) là phương pháp điều trị được lựa chọn ở giai đoạn sớm. Thay huyết tương có tác dụng khi thực hiện sớm và được chỉ định nếu IVIG không hiệu quả. Thay huyết tương rút ngắn quá trình bệnh và thời gian nằm viện, đồng thời giảm nguy cơ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh liệt vĩnh viễn. Tuy nhiên, nó có thể gây hạ huyết áp do lượng dịch truyền lớn và việc tiếp cận qua đường tĩnh mạch có thể khó khăn hoặc gây ra các biến chứng.
Lọc huyết tương loại bỏ mọi IVIG dùng trước đó, gây mất tác dụng của IVIG, do vậy không bao giờ thực hiện lọc huyết tương trong hoặc sớm sau khi sử dụng IVIG. Nên đợi ít nhất 2 đến 3 ngày sau khi ngừng dùng IVIG.
Tỷ lệ tử vong của Hội chứng Guillain-Barré khoảng 4%. Hầu hết bệnh nhân cải thiện đáng kể sau vài tháng, nhưng một số lượng đáng kể người lớn và thậm chí nhiều trẻ em vẫn còn tình trạng yếu cơ kéo dài. Bệnh nhân có di chứng cần được phục hồi chức năng, sử dụng các dụng cụ chỉnh hình hoặc phẫu thuật.
Sau khi cải thiện ban đầu, khoảng 5% số bệnh nhân bị bệnh đa dây thần kinh mất myelin do viêm mạn tính.
Theo Y học cổ truyền
Trong các tài liệu YHCT, liệt được mô tả trong chứng “Nuy”. Chứng nuy là chỉ một chứng bệnh mà trong đó cân mạch, cơ nhục của cơ thể mềm yếu, khô héo, tê liệt mất vận động; chứng này thường phát sinh ở hai chi dưới. Chứng nuy gồm có ngũ nuy: Bì nuy, mạch nuy, nhục nuy, cân nuy và cốt nuy.
Có thể thấy nguyên nhân gây ra chứng nuy gồm có: Nhiệt, đàm thấp, tình chí, lao nhọc. Các nguyên nhân này làm tổn thương các tạng Phế, Tâm, Tỳ, Can, Thận gây mất cân bằng âm dương trong cơ thể, khiến khí huyết trong kinh mạch tắc trở.
Châm cứu
Châm cứu là một phương pháp được lựa chọn điều trị phục hồi yếu liệt dựa trên nhiều nghiên cứu lâm sàng, các khuyến cáo trong và ngoài nước. Theo YHCT, châm cứu có tác dụng toàn thân giúp điều hòa sự cân bằng âm dương trong cơ thể, tác dụng tại chỗ giúp hành khí hoạt huyết trong kinh mạch, dẫn khí huyết đến nuôi dưỡng và duy trì hoạt động cho bì mao, mạch, cơ nhục, cân và cốt, tác dụng điều hòa các rối loạn chức năng tạng phủ bị bệnh.
Các phương pháp châm cứu có thể sử dụng điều trị yếu liệt gồm có: hào châm, điện châm, nhĩ châm, châm cứu cải tiến, đầu châm, cấy chỉ, quang châm, mãng châm, thủy châm.
Xoa bóp bấm huyệt
Xoa bóp bấm huyệt là phương pháp điều trị, người thầy thuốc sử dụng tay của mình tác động lên da, cơ, các huyệt vị, xương khớp của người bệnh nhằm mục đích phòng và điều trị bệnh.
Theo y học cổ truyền xoa bóp bấm huyệt bao gồm các kỹ thuật: xoa, xát, miết, phân, hợp, véo, vỗ, phát, bóp, đấm, chặt, lăn, rung, day huyệt, ấn huyệt, bấm huyệt, điểm huyệt, vê khớp, vận động khớp, kéo giãn khớp, ... có tác dụng thư cân, giải cơ, thông kinh hoạt lạc, điều hòa dinh vệ và điều hòa chức năng tạng phủ.
Tùy thuộc vào tình trạng bệnh lý và thể trạng của người bệnh, một liệu trình điều trị từ 15 - 30 ngày, tùy theo mức độ và diễn biến của từng bệnh, có thể tiến hành 2 - 3 liệu trình liên tục.