Hệ thần kinh được chú ý, quan tâm không chỉ vì giữ chức năng nhiệm vụ quan trọng mà còn vì những tế bào thần kinh, không có khả năng nhân lên để thay thế tế bào khác bị tổn thương. Nói cách khác, nếu một tế bào thần kinh nào đó “ốm yếu” hay không may mất đi thì một phần vi nhỏ nào đó của cơ thể, sẽ bị thiểu năng hay không hoạt động.
Thần kinh là hệ cơ quan phân hóa cao cấp nhất trong cơ thể người, được cấu tạo bởi một loại mô chuyên biệt là mô thần kinh, gồm các tế bào thần kinh - neuron - và các tế bào thần kinh đệm.
Các neuron tạo ra chất xám và chất trắng là hai thành phần cơ bản của não, tủy sống và hạch thần kinh. Hệ thần kinh chia ra làm 2 bộ phận: bộ phận trung ương (não, tủy sống) và bộ phận ngoại biên (các dây thần kinh đi khắp cơ thể người, các hạch thần kinh), trong đó bộ phận trung ương giữ vai trò chủ đạo.
Ngoài chức năng đảm bảo sự sống, não người còn có hoạt động thần kinh cao cấp được hình thành nên từ nhiều các phản xạ rất phức tạp mà không sinh vật nào có được.
Trong cơ thể của người trưởng thành, các tế bào được chia thành ba nhóm:
- Nhóm thứ nhất gồm các tế bào phân chia thường xuyên, luôn đổi mới như tế bào da, tế bào niêm mạc, môi, miệng…
- Nhóm thứ hai gồm các tế bào tuy ít phân chia hơn nhưng tiềm ẩn khả năng phát triển lớn như tế bào gan, thận… Khi gan, thận bị tổn thương (một số tế bào bị mất đi), những tế bào gan, thận lành còn lại sẽ tăng phân chia bù lại phần chức năng bị ảnh hưởng. Gan người là một cơ quan có khả năng tái tạo rất lớn. Gan có thể mất đến 75% về lượng nhưng vẫn có thể phát triển tái tạo trở lại.
- Nhóm thứ ba gồm các tế bào không bao giờ phân chia. Tế bào thần kinh là một trong số những tế bào như thế. Điều đó có nghĩa là, ở người trưởng thành, lượng tế bào thần kinh không tăng theo thời gian, mà chỉ có thể giảm đi do bị tổn thương hay vì bệnh tật, tai nạn, lão hóa…
Để đảm bảo chức năng “tổng đạo diễn” và chỉ huy các hoạt động của toàn cơ thể, tạo hóa đã cho các tế bào thần kinh nói riêng, hệ thần kinh nói chung sớm được biệt hóa, phát triển từ tế bào “hợp tử” ban đầu. Hệ thần kinh có thời gian tăng trưởng chính vào những tháng cuối của bào thai và những tháng đầu của cuộc đời. Não, phần quan trọng nhất của hệ thần kinh phát triển nhanh trong thời kỳ nhà trẻ mẫu giáo và tổ chức não trưởng thành 100% lúc 6 tuổi.
Não lúc sinh nặng 350 g, 1 tuổi 900 g, lúc 6 tuổi 1.300 g nặng như não người lớn. Não bộ được nuôi bởi hai hệ động mạch cảnh và hai động mạch đốt sống (động mạch thân nền) ở hai bên cổ. Ngoài ra còn có hệ thống kết nối, liên kết với nhau trên bề mặt vỏ não và nền sọ để hỗ trợ bù trừ nhau khi một nhánh nào đó không hoàn thành nhiệm vụ (do bị co thắt, chít hẹp hay bị tắc). Bình thường, não có lượng lớn máu đi qua, thường xuyên tiếp nhận khoảng 15% lượng máu tim cung cấp cho toàn cơ thể.
Mỗi giai đoạn của cuộc sống có những bệnh, tác nhân ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Chẳng hạn ở trẻ em bị tình trạng thiếu oxy não do nhiều nguyên nhân khác nhau như bị ngạt khi sinh khó; ngộ độc khí CO do mẹ nằm than hay hít phải khói thuốc lá của bố; bị ngừng thở do đuối nước; hoặc mắc dị vật đường hô hấp…
Một số bệnh hay gặp của trẻ em: bại não, tự kỷ, chậm phát triển trí tuệ ảnh hưởng nhiều đến “sức khỏe” hệ thần kinh trẻ.
Đối với người trưởng thành cũng có không ít yếu tố ảnh hưởng không tốt đến hệ thần kinh. Bên cạnh rượu, thuốc lá, đặc biệt ma túy, dễ nhận thấy tác hại (nhưng nhiều người vẫn chưa đủ quyết tâm tránh xa); còn những tác hại khác như tình trạng làm việc trí não quá nhiều, thiếu ngủ, để đầu óc luôn căng thẳng…
Với người có tuổi, khi mạch máu cung cấp không đủ máu nuôi cơ thể não nói riêng, hệ thần kinh nói chung không đủ chất dinh dưỡng đặc biệt là oxy sẽ hoạt động chuệch choạc, kém hiệu quả dẫn tới thiểu năng tuần hoàn não, sa sút trí tuệ. Những bệnh này, nhất là khi bị tai biến mạch máu não lại càng hệ lụy tới hệ thần kinh.
Điểm lại một số yếu tố ảnh hưởng đến hệ thần kinh ở các lứa tuổi khác nhau như vừa kể trên, chúng ta thấy tiềm ẩn một nguyên nhân quan trọng là thiếu oxy cấp hoặc mãn tính trong máu đến nuôi dưỡng hệ thần kinh. Não cần được sử dụng tới 25% tổng lượng oxy cung cấp cho toàn cơ thể. Tuy bầu không khí có tới 20% oxy, đâu đâu cũng có oxy để thở nhưng không phải cơ thể ai cũng đủ oxy. Bởi oxy từ thiên nhiên vào tế bào cơ thể còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: sự tiếp nhận của phổi, vào lượng và chất của máu, khả năng làm việc của tim, thông suốt của mạch máu. Do đó sống trong cùng môi trường, cùng nhà nhưng có người thì đủ, có người thì bị thiếu oxy.
Oxy là chất dinh dưỡng cần thiết nhất của cơ thể. Hệ thần kinh, đặc biệt là não, là cơ quan cần oxy nhất của cơ thể. Cần phải đáp ứng đủ “thực phẩm” quan trọng này cho não bằng tạo và tận hưởng môi trường xanh, sạch; hạn chế và tránh xa những chất độc hại thần kinh.
Y học sức khỏe có những biện pháp giúp cơ thể tăng cường hiệu quả sử dụng oxy như tập luyện thể dục, thể thao, tập yoga, bổ sung oxy cao áp (OXCA)… Đó là những biện pháp dễ thực hiện nhưng giữ vai trò trọng yếu, thiết thực để chăm sóc giữ gìn hệ thần kinh, tạo cuộc sống vui khỏe, tăng cường tuổi thọ.