Công bố kết quả nghiên cứu “Đánh giá mức độ sẵn sàng của Việt Nam về tự chăm sóc sức khỏe và các yếu tố ảnh hưởng”
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Bộ Y tế, phối hợp cùng Opella Việt Nam đã chính thức công bố kết quả nghiên cứu “Đánh giá mức độ sẵn sàng của Việt Nam về tự chăm sóc sức khỏe (tự CSSK) và các yếu tố ảnh hưởng”.
Nghiên cứu được triển khai từ tháng 6/2025 đến tháng 12/2025, dựa trên bộ công cụ Khung Chỉ số Mức độ Sẵn sàng tự CSSK của Liên đoàn Chăm sóc Sức khỏe Toàn cầu bao gồm 4 yếu tố then chốt và 14 chỉ số thành phần. Đây là bộ công cụ đã được áp dụng tại 20 quốc gia trên thế giới. Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng quan và nghiên cứu thực địa tại 4 tỉnh, thành phố, bao gồm: Phú Thọ, Bắc Ninh, TP. Huế và An Giang.
Nghiên cứu thực địa áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính (5 cuộc phỏng vấn sâu các nhà hoạch định chính sách và 28 cuộc thảo luận nhóm với nhà quản lý, cán bộ y tế và người dân) và nghiên cứu định lượng (phỏng vấn bằng bộ câu hỏi với 171 cán bộ y tế và 418 người tiêu dùng).

Việt Nam đứng thứ 4/10 quốc gia trên thế giới khi so sánh về mức độ sẵn sàng tự CSSK
Việt Nam đạt 3,04 điểm trên thang 4 điểm, xếp thứ 4 trong so sánh quốc tế, sau Singapore, Úc, Đức. Điểm số của 4 yếu tố then chốt gồm: 1) Sự ủng hộ và chấp nhận của các bên liên quan (2,79); 2) Trao quyền cho bệnh nhân và người tiêu dùng (3,06); 3) Chính sách y tế về tự CSSK (3,05); 4) Môi trường pháp lý (3,26). Trong 14 chỉ số thành phần của 4 yếu tố then chốt, 9/14 đạt mức 3 đến 3,75 điểm, phản ánh mức độ sẵn sàng tương đối tốt nhưng còn chưa đồng đều giữa các lĩnh vực.
Hệ thống y tế rất ủng hộ tự CSSK, nhưng niềm tin của người dân còn hạn chế
Nhóm chỉ số 1 - Sự ủng hộ và chấp nhận của các bên liên quan (2,79) được đo lường qua 03 chỉ số: Chỉ số 1.1. Nhân viên y tế tin tưởng và ủng hộ tự CSSK (3,03) cao hơn mức trung bình và cao hơn các quốc gia trong khu vực (Singapore, Indonesia). Theo đó, 73,1% cán bộ y tế cho biết trong kế hoạch điều trị, họ thường xuyên tư vấn bệnh nhân tự CSSK. Tuy nhiên, chỉ số 1.2. Người dân tin tưởng và ủng hộ tự CSSK (2,38) cho thấy niềm tin người dân cần cải thiện thêm.
Dù vậy, khảo sát cũng cho thấy người dân ủng hộ tự sử dụng thuốc không kê đơn để điều trị các bệnh nhẹ, thông thường như ho, cảm cúm và tự rèn luyện để nâng cao thể lực. Ở chỉ số 1.3. Nhà hoạch định chính sách hiểu rõ về tự CSSK (2,95), điểm thấp hơn trung bình vì Việt Nam chưa có chính sách riêng về tự CSSK. Trên thực tế 94,1% cán bộ y tế đồng ý rằng các nhà hoạch định chính sách hiểu rõ về tự CSSK vì hầu hết các nội dung đã được lồng ghép trong các định hướng, chính sách ở cấp quốc gia và được triển khai lồng ghép trong các hoạt động thường quy của ngành y tế.

Người dân chủ động hơn trong tự CSSK, nhưng khả năng tiếp cận dữ liệu và công cụ số vẫn còn hạn chế
Nhóm chỉ số 2 - Trao quyền cho bệnh nhân và người tiêu dùng đạt 3,06 điểm, cao hơn 7/10 quốc gia trong báo cáo năm 2022, chỉ thấp hơn Úc, Đức và Singapore. Kết quả cho thấy chỉ số 2.3.Tự xét nghiệm (3,36) đạt điểm cao nhất, phản ánh việc người dân có thể dễ dàng tiếp cận sản phẩm và thiết bị tự theo dõi sức khỏe trên thị trường. Bên cạnh đó, Chỉ số 2.2.Hiểu biết sức khỏe của người dân (3,26) đạt mức khá cao, cho thấy người dân chủ động nhận diện các vấn đề sức khỏe thông thường và áp dụng các biện pháp tự CSSK.
Tuy nhiên, chỉ số 2.1.Khả năng tiếp cận dữ liệu sức khỏe cá nhân (2,69) và chỉ số 2.4.Công cụ số giúp người bệnh tự CSSK (2,91) đang ở mức trung bình. Điều này cho thấy cơ hội đẩy mạnh triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử gắn với VneID và phát triển, phổ biến các nền tảng số chính thống (trang web, ứng dụng, đường dây nóng, v.v.) để hỗ trợ người dân tiếp cận thông tin về tình trạng bệnh, đơn thuốc, tư vấn chăm sóc, quản lý bệnh mạn tính, tra cứu thông tin y tế, thông tin về thuốc không kê đơn, v.v. phục vụ tự CSSK.

Chính sách ủng hộ tự CSSK, hướng tới tăng cường hiệu quả hệ thống y tế
Nhóm chỉ số 3 - Chính sách y tế về tự CSSK đạt 3,05 điểm, cao hơn mức trung bình nhưng vẫn thấp hơn nhiều quốc gia trong khảo sát năm 2022. Trong đó, chỉ số 3.3. Công nhận YHCT và các phương pháp hỗ trợ trong chính sách y tế (3,00) đạt mức trung bình, phản ánh kết quả việc thực hiện quan điểm gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại, tích hợp YHCT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe khá toàn diện.
Chỉ số 3.2. Các hành động chính sách nhằm nâng cao nhận thức của người dân về sử dụng thuốc không kê đơn an toàn và lối sống lành mạnh (3,17) đạt mức cao nhất, phản ánh năng lực truyền thông, giáo dục sức khỏe sâu rộng dựa trên huy động cộng đồng của Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu định tính cho thấy người dân vẫn còn tiếp cận thông tin thiếu kiểm chứng qua mạng xã hội (Facebook, TikTok, YouTube) do nội dung hấp dẫn và dễ tiếp cận, trong khi thông tin từ các kênh chính thống lại khó tiếp cận hơn với đại bộ phận người cao tuổi do rào cản công nghệ. 49% người tiêu dùng cho biết họ cần thêm kiến thức để chủ động tự CSSK. Nhân viên y tế tuyến cơ sở cũng quá tải, thiếu kỹ năng tư vấn và cơ chế khuyến khích dẫn đến chất lượng tư vấn, hướng dẫn tự CSSK chưa đồng đều.
Chỉ số 3.1.Tự CSSK được lồng ghép trong các chính sách y tế quan trọng (3,05) cho thấy dù Việt Nam chưa có Chiến lược Quốc gia riêng về tự CSSK, nội dung này đã xuất hiện trong nhiều văn bản quan trọng như Nghị quyết 20-NQ/TW, Chiến lược quốc gia về CSBVSKND hay Chương trình Sức khỏe Việt Nam, v.v.. Tuy nhiên, các nội dung về tập huấn cho cán bộ y tế về trao quyền cho bệnh nhân tự CSSK, cũng như tầm quan trọng của dược sĩ cộng đồng trong giáo dục người dân về sức khỏe, cách điều trị các bệnh nhẹ một cách an toàn, và tự quản lý bệnh mạn tính chưa được đề cập một cách rõ ràng.

Môi trường pháp lý thuận lợi, tiếp tục đẩy mạnh minh bạch thông tin
Nhóm chỉ số 4 - Môi trường pháp lý (3,26) có điểm số cao nhất trong 4 yếu tố then chốt. Trong đó, Chỉ số 4.3.Tiếp cận/phân phối sản phẩm tự CSSK (3,75) đạt mức rất cao, cho thấy sản phẩm hiện được cung cấp rộng rãi đa kênh. Cơ sở pháp lý hiện hành cho phép người dân có thể mua bán trực tuyến thuốc không kê đơn, thực phẩm bảo vệ sức khỏe và trang thiết bị y tế. Tuy nhiên, sự thuận tiện này cũng đi kèm rủi ro về chất lượng sản phẩm tự CSSK trên các kênh bán hàng trực tuyến và mạng xã hội. Mặc dù trang web của Cục Dược, Bộ Y tế là nơi có thể tra cứu số đăng ký, nguồn gốc, xuất xứ, v.v. nhưng người dân còn khó khăn trong tiếp cận.
Chỉ số 4.1. Quy trình phê duyệt và quản lý sản phẩm (3,48) cho thấy Việt Nam đã xây dựng được quy trình phê duyệt và quản lý các sản phẩm tự CSSK khá đầy đủ, minh bạch. Chỉ số 4.2.Phân loại thuốc kê đơn sang không kê đơn (3,08) cũng cho thấy Việt Nam có quy định rõ ràng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đáng chú ý, chỉ số 4.4. Quảng cáo và giá (2,72), có số điểm thấp nhất bộ chỉ số này, do Việt Nam áp dụng các quy định về quảng cáo tương đối chặt chẽ với các mặt hàng dược phẩm. Tuy nhiên với việc tiếp cận sản phẩm dễ dàng, thì việc áp dụng quy định quảng cáo chặt chẽ sẽ làm giảm nguy cơ quảng cáo sai sự thật gây ảnh hưởng sức khoẻ người tiêu dùng.

Hướng ưu tiên tiếp theo để nâng cao năng lực tự CSSK tại Việt Nam
Mặc dù mức độ sẵn sàng về tự CSSK của Việt Nam đang ở mức khá tốt so với khu vực, nghiên cứu cho thấy cần tiếp tục tập trung vào việc nâng cao nhận thức người dân, tăng cường năng lực tư vấn của cán bộ y tế, và cải thiện khả năng tiếp cận thông tin chính thống. Nghiên cứu chỉ ra các ưu tiên trong thời gian tới bao gồm: Đẩy mạnh truyền thông chính thống về tự CSSK; Đẩy nhanh triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử tích hợp VneID nhằm mở rộng khả năng người dân tự tra cứu lịch sử khám chữa bệnh, xét nghiệm, thuốc, v.v.; Thúc đẩy áp dụng nhãn điện tử cho thuốc, đặc biệt là thuốc không kê đơn nhằm tăng cường tiếp cận thông tin về thuốc và; Thí điểm các mô hình tự CSSK tại cộng đồng làm cơ sở xây dựng Chiến lược/Kế hoạch Quốc gia về tự CSSK.
Tiến sĩ Nguyễn Khánh Phương - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế cho biết, kết quả nghiên cứu cho thấy Việt Nam đã có những nền tảng thuận lợi để thúc đẩy tự CSSK, nhưng vẫn còn nhiều dư địa cần được khai thác thông qua truyền thông chính thống, tư vấn y tế và các giải pháp hỗ trợ người dân tiếp cận thông tin tự CSSK một cách an toàn. Đây là thời điểm phù hợp để từng bước hình thành các mô hình và định hướng quốc gia về tự CSSK.
“Nghiên cứu này là một bước tiến quan trọng, lần đầu tiên giúp chúng ta hiểu rõ hơn nhu cầu và rào cản của người dân trong hành trình tự CSSK. Là tập đoàn toàn cầu tiên phong trong lĩnh vực tự CSSK, Opella tự hào đồng hành cùng cơ quan quản lý trong việc giới thiệu và triển khai khung nghiên cứu này tại Việt Nam, đồng thời cam kết tiếp tục thúc đẩy tự CSSK thông qua nâng cao nhận thức người tiêu dùng, phân phối sản phẩm chất lượng và quảng bá sản phẩm có trách nhiệm, để sức khỏe thật sự nằm trong tay mỗi người dân Việt Nam", Tiến sĩ Dược Valentina Belcheva - Tổng Giám đốc Opella Việt Nam và Campuchia chia sẻ.

