Cơm nguội răng (còn có tên Trọng đũa, Đại la tán, Bách lượng kim, Châu sa kim) thuộc tiểu mộc, cao từ 0,5 - 2 mét, nhiều cành nhánh. Lá có phiến xoan ngược, dày, dài 7 - 10 cm, rộng 4 - 5 cm. Cành mang 1 - 3 láở chót. Chùm hoa tảng phồng ở cuối cành, hoa màu hồng, trái tròn, to 7 - 8 mm, khi chín màu đỏ tươi, có đốm trong, thòng xuống trông rất đẹp (xem bìa 1).
Cơm nguội răng (Trọng đũa) mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh, làm rau, làm thuốc. Ngọn và lá non hái về vò qua với ít muối, rửa sạch để nấu canh ăn cho mát, lợi tiểu giải độc và trị đau nhức, nhưng không nên dùng nhiều vì hơi có độc và kỵ thai. Cành, lá, vỏ thân và rễ được thu hái, phơi khô làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian, ngâm rượu hoặc sắc uống. Liều dùng 10 -15 g dược liệu khô sắc uống trị đau nhức, ho, viêm họng. Rễ Cơm nguội chứa nhiều glycosid triterpenoid (ardisicrenodid A, B, C, D, E, F...), các dẫn xuất bergenin, sitosterol, giàu sinh tố khoáng chất các loại. Lá chứa đa phenol, saponin.
Dược tính: nước sắc cành lá có tính kháng sinh, ức chế nhiều vi khuẩn ngoài da và đường ruột, có tác dụng kháng viêm giảm đau và trục huyết ứ sau sinh. Kỵ thai.
Bài thuốc kinh nghiệm dùng cho phụ nữ sau sinh: toàn cây Cơm nguội 20 g, cây Dủ dẻ 30 g, Ngũ gia bì gai hay cây Chân chim 30 g, cây Mua 30 g, cây Gai làm bánh 20 g. Dược liệu khô, chặt nhỏ, thêm 2 lít nước, sắc còn 1 lít để uống trong ngày. Dùng liên tục 15 - 30 ngày.
Bài thuốc trị ho dai dẳng: thân và rễ cây Cơm nguội 20 g, cây Thuốc giòi 20 g (tươi: 50 g), vỏ Quýt 2 cái, Cam thảo 8 g (hoặc Cam thảo đất 12 g). Dược liệu khô sắc với 1 lít nước, còn phân nửa chia uống trong ngày. Dùng 3 ngày liền.
Trị bầm giập, té trặc: lá Cơm nguội 1 nắm, Gừng tươi 1 củ, muối 1 muỗng canh. Rửa sạch, thêm muối, giã nát bó vào vết thương. Ngày thay băng 1 lần.