Tác dụng khác nhau của lá và rễ cây hoàn ngọc

ĐÔNG HƯỜNG| 20/06/2014 11:33

Lâu nay người tiêu dùng đã khá quen thuộc với sản phẩm trà Hoàn Ngọc trên thị trường, nhưng có thể chưa phân định được tác dụng khác nhau giữa lá và rễ cây hoàn ngọc. Theo các nhà khoa học, quá trình nghiên cứu các thành phần của cây hoàn ngọc, đã phân định được những chất khác nhau và có tác dụng khác nhau từ lá và rễ…

Theo TS Nguyễn Thị Minh Hằng - Viện Hóa sinh biển: Cây Hoàn Ngọc có tên khoa học là (Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Raldk.) đã được sử dụng trong dân gian từ rất lâu để chữa một số bệnh. Bộ phận được sử dụng chủ yếu trong dân gian là lá cây. Từ năm 2007, DNTN Trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh đã phối hợp với Viện Hóa sinh biển để nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của cây hoàn ngọc.
Trong quá trình nghiên cứu, từ rễ cây hoàn ngọc, các nhà khoa học của Viện Hóa sinh biển đã phân lập được một số chất có khả năng kháng u thuộc lớp chất tritecpen. Có hàm lượng lớn nhất là 2 chất lupeol và betulin. Đây là 2 chất tritecpen có phổ hoạt tính sinh học rộng, đã có rất nhiều công trình khoa học trên thế giới công bố về hoạt tính sinh học của các chất này.
Trên cơ sở các kết quả đã nghiên cứu về thành phần hóa học của rễ cây hoàn ngọc, trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu quy trình công nghệ tạo chế phẩm hỗ trợ phòng chống khối u từ cây hoàn ngọc” các nhà khoa học đã xây dựng một quy trình chiết xuất được chế phẩm trong đó có tổng hàm lượng lupeol và betulin lớn hơn 80% và đã thử khả năng kháng u của chế phẩm này cùng một số chế phẩm khác từ cây hoàn ngọc.
Bà Bùi Kim Nga, giám đốc DNTN Trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh cho biết, lá và rễ cây hoàn ngọc đều đã được nghiên cứu về hoạt tính. Tác động của lá và rễ có những ứu thế khác nhau. Dịch chiết 80% etanol của lá hoàn ngọc khô đã được nghiên cứu sơ bộ về độc tính. Kết quả cho thấy dịch chiết này không thể hiện độc tính cấp và bán cấp trên chuột thực nghiệm ở các liều 1000 mg/kg chuột và 2000 mg/kg chuột qua đường uống và không thể hiện độc tính đối với các tế bào lành tính ở nồng độ 50 µg/mL.
Trước đây dân gian dùng lá cây để khôi phục sức khỏe cho người ốm yếu, mệt mỏi, người già, suy nhược thần kinh, làm việc quá sức, khủng hoảng về tinh thần và thể lực; chữa cảm cúm, rối loạn tiêu hóa; chấn thương, dùng như nước uống và thuốc đắp. Hoàn ngọc có thể chữa viêm loét đại tràng, trĩ nội; đau gan xơ cổ trướng, viêm đường tiết niệu; đau mắt đỏ, mắt trắng, đau không rõ nguyên nhân...
Nhóm của PGS. TS Nguyễn Văn Hùng, Viện Hóa học (Viện KHCN Việt Nam) nghiên cứu từ lá cây hoàn ngọc thu hái tại Hà Nội đã phân lập được các chất β- sitosterol, phytol, 3-O-(β-D-glucopyranosyl)-sitosterol, hỗn hợp stigmasterol và poriferasterol, 1-triacoltanol, glycerol 1-hexadecanoate, axit palmitic và axit salicylic.
Còn nghiên cứu từ rễ cây hoàn ngọc thu hái tại vườn trồng của DNTN Trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh đã phân lập được một số hợp chất tritecpen có hoạt tính sinh học giá trị là lupeol, betulin và lupenone. Rễ cây cũng chứa một số tritecpen khác là epifriedelanol và axit pomolic với hàm lượng nhỏ. Ngoài ra, nó còn chứa một số chất thuộc các lớp chất khác như b-sitosterol, b-sitosterol glucoside... Hai thành phần chính của rễ cây cũng đã bước đầu được nghiên cứu về hoạt tính gây độc tế bào đối với ba dòng tế bào ung thư vú MCF-7, ung thư gan Hep-G2 và ung thư biểu mô KB. Betulin có hoạt tính trên cả ba dòng tế bào được thử MCF-7 (IC50 6,65 µg/ml), Hep-G2 (IC50 32 µg/ml) và KB (IC50 26 µg/ml), còn lupeol có tác dụng đối với dòng tế bào ung thư vú MFC-7 với IC50 là 18,29 µg/ml.
Từ những kết quả nghiên cứu này, theo bà Bùi Kim Nga DNTN Trà Hoàn Ngọc 7 Nga Tây Ninh đã quyết định nghiên cứu sản xuất 2 dạng trà khác nhau là hộp trà vàng và hộp trà xanh, sắp tới đây sẽ là 2 dạng viên nang TANU GOLD và TANU GREEN có tác dụng hỗ trợ phòng chống và điều trị khối u phục vụ cho những đối tượng khách hàng có nhu cầu khác nhau.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Tác dụng khác nhau của lá và rễ cây hoàn ngọc
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO