Làm thế nào để phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam?

TS . Nguyễn Quân (Bộ trưởng Bộ KH & CN)| 08/02/2016 10:07

KHPT - Nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa hội nhập quốc tế, khoa học và công nghệ (KH&CN) chắc chắn sẽ giữ vai trò rất quan trọng để chúng ta có thể cạnh tranh với các nước phát triển trong TPP với các quốc gia hàng đầu thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Singapore...

Nếu không phát triển KH&CN chắc chắn chúng ta không thể hội nhập thành công, hàng hóa của VN không thể có chất lượng cao, giá thành hạ để cạnh tranh với hàng hóa của các nước trong khu vực và thế giới. Những người làm KH&CNVN phải có trách nhiệm lịch sử, chúng ta phải cùng với toàn dân, đưa đất nước phát triển và chính điều đó khẳng định một lần nữa vai trò của KH&CN đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước.

KH &CN Việt Nam đang ở đâu?

Hiện nay , đầu tư cho KHCN của Việt Nam còn rất khiêm tốn vì chúng tà còn là nước nghèo. Hàng năm Nhà nước dành cho KHCN 2% tổng chi ngân sách quốc gia, tương đương 0,5% GDP quốc gia, nếu nói về con số tương đối thì chúng ta cũng tương với các nước trên thế giới, các quốc gia,kể cả các nước phát triển nhất cũng thường chỉ dành 0,5-0,6% GDP cho KH&CN, tuy nhiên đứng về con số tuyệt đối thì chúng ta đang ở thứ hạng rất thấp bởi vì GDPquốc gia Việt Nam đến nay chưa đạt 200 tỉ USD, và vì thế 0,5%GDP chỉ tương đương 1 tỉ USD, trong khi các nước xung quanh chúng ta con số này lớn hơn rất nhiều. Tuy nhiên, bằng ý chí và trí tuệ của người VN, có thể nói là chúng ta đã có những kết quả, những thành tựu rất đáng mừng.

Trong nông nghiệp, khi bước vào thời kỳ đổi mới nông nghiệp chúng ta đã trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về xuất khẩu nông sản, gạo, cafe, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản. Chúng ta đã tạo ra rất nhiều giống lúa mới, rất nhiều giống cây trồng vật nuôi mới,và có thể nói mặc dù nông nghiệp Việt Nam còn khó khăn, nông dân vẫn còn nghèo, nhưng những thành tựu của nông nghiệp Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Trong công nghiệp, chúng ta đã bắt đầu có những sản phẩm được cộng đồng quốc tế thừa nhận, dàn khoan tự nâng 90m nước, 120m nước trong ngành dầu khí của chúng ta là 1 ví dụ điển hình về sự năng động sáng tạo.Chúng ta đã XK 1 nhà dàn dầu khí cho Ấn Độ, chúng ta đang làm dàn khoan 120m nước để có thể hoạt động ở những vùng biển sâu hơn. Chúng ta cũng đã làm chủ được thiết kế và tự thi công các nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, Nhà máy thủy điện Sơn La 2.400MW là nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á do người VN hoàn toàn tự chủ thiết kế và thi công. Chúng ta cũng làm chủ các trạm điều khiển vệ tinh mặt đất đối với các vệ tinh viễn thông và viễn thám Vinasat 1, vinasat2, VNREDSat và chúng ta cũng đang chế tạo các loại vệ tinh nhỏ phục vụ cho các ngành kinh tế và trong tương lai gần chúng ta sẽ có vệ tinh của VN.

Trong xây dựng, có thể nói chưa bao giờ chúng ta có nhiều công trình lớn như hiện nay.Các nhà cao tầng, các cầu hầm, cầu vượt sông, từ cầu dây văng đến cầu bê ton, cầu độ lớn, cầu Cổ Chiên là 1 ví dụ về sự dám nghĩ dám làm của đội ngũ cầu kỹ thuậtcầu VN. Trong lĩnh vực  quốc phòng- an ninh, chúng ta cũng đã có những thành tựurất quan trọng, hiện nay hệ thống ra đa phòng không tập trung chúng ta đã hoàn toàn làm chủ thiết kế chế tạo không phải nhập khẩu từ nước ngoài, trang thiết bị của quân đội, đặc biệt là thiết bị viễn thông, thiết bị thông tin gần như 100% là của VN. Chúng ta đang có chương trình quốc qia về tên lửa để trong tương lai gần chúng ta có thể có được tiềm lực quân sự đủ mạnh để bảo vệ vững chắc tổ quốc của chúng ta.Vừa rồi, chúng ta đã hạ thủy 4 tàu hộ vệ tên lửa tấn công nhanh theo thiết kế của Nga, cũng do các kỹ sư và công nhân VN làm chủ thiết kế, chế tạo và hạ thủy thành công. Có thể nói trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, chúng ta đang đứng trước thách thức rất lớn với tình hình biển đông và rất nhiều vấn đề khác, vì thế nâng cao tiềm lực quốc phòng của đất nước là nhiệm vụ hàng đầu của những người làm KH&CN phải hướng đến và những thành tựu mới nhất, những thành tựu quan trọng nhất của KH công nghệ phải ứng dụng đầu tiên trong lĩnh vực quốc phòng…

Đương nhiên, chúng ta cũng còn nhiều yếu kém, có 3 yếu kém lớn: thứ nhất,là đầu tư vào cơ sở vật chất còn nghèo nàn, chúng ta thiếu các phòng thí nghiệm hiện đại, thiếu các trường ĐH nghiên cứu. Thứ 2, thiếu đội ngũ nhân lực trình độ cao, có 1 khoảng trống giữa các thế hệ làm khoa học. Thứ 3 là chúng ta có số lượng các sản phẩm KHCN rất khiệm tốn so với khu vực và thế giới, đó là các bằng sáng chế và các bài báo quốc tế có trên tạp chí có uy tín ISI, mặc dù về trình độ chúng ta không thua kém nhưng số lượng chúng ta còn rất ít.

CN_

3 trụ cột đổi mới KH & CN

Nghị quyết của  Ban chấp hành trung ương Đảng về phát triển KH & CN và Nghị quyết  20 của  hội nghị lần 6 Ban chấp hành trung ương Đảng ngày 31/10/2012 đã được ban hành với những nội dung đổi mới tiếp cận kinh tế thị trường và thông lệ  quốc tế và 6 tháng sau  Quốc hội đã thông qua luật KH& CN 18/6/2013 thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và những gì mà vướng mắc cản trở của luật KH& CN . Bộ KH & CN đã xây dựng 7 Nghị định của Chính Phủ để triển khai luật KH&CN, trong đó có 5  nghị định rất quan trọng, đó là  nghị định  08 hướng dẫn cụ thể về Luật KHCN, nghị định 11 về hệ thống thông tin KHCN, nghị định 23 về hệ thống Quỹ  phát triển KHCN quốc gia, nghị định 40 về đãi ngộ trọng dụng cán bộ KHCN, nghị định 95 về đầu tư cơ chế tài chính cho KHCN. Ở đây , xin đề cập đến vấn đề  cơ chế tài chính và chế độ đãi ngộ cho các nhà  khoa học

Đổi mới KH& CN dựa trên 3 trụ cột:

   - Một là, đổi mới về đầu tư,huy động nguồn đầu tư  xã hội cho KH &CN để có đủ nguồn lực phát triển KH& CN đất nước, với tỉ lệ phấn đấu đến 2020 sẽ có 2% GDP quốc gia, đến năm đó GDP VN sẽ có thể vượt qua mức 300 tỉ UDS, nếu với 2%  chúng ta sẽ có 6 tỉ USD dành cho KHCN và như vậy mức đầu tư trên đầu người VN sẽ vượt qua 60USD/đầu người như vậy là sự nỗ lực rất lớn đối với 1 nước nghèo, và trong luật cũng như  nghị định 95 thì bên cạnh đầu tư của Nhà nước thì luật bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước dành ít nhất 3%, tối đa là 10% lợi nhuận trước thuế của để đầu tư cho KHCN, các doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng phải có tinh thần khoa học, phải dành 1 phần lợi nhuận của họ như doanh nghiệp nhà nước và nếu 111 tập đoàn ,  tổng công ty  nhà nước thực hiện nghiêm luật KHCN thì chắc chắn chúng ta có hơn 2 tỉ USD dành cho KHCN. Trụ cột thứ 2 chúng ta phải đổi mới cơ chế tài chính, đây là nút thắt khó nhất, lớn nhất đối với những người làm khoa học, nhiều nhà khoa học nói thời gian để làm hóa đơn chứng từ nhiều hơn thời gian làm đề tài, và nhiều người khốn khổ vì thủ tục thanh quyết toán các đề tài nghiên cứu.Và như vậy trong đổi mới cơ chế tài chính có 3 cơ chế phải đổi mới, một là đặt hàng, đặt hàng để cho các đề tài nghiên cứu xong không bỏ ngăn kéo, vì người nào đặt hàng nghiên cứu phải chịu trách nhiệm tiếp nhận lại kết quả nghiên cứu và tổ chức ứng dụng nó vào sản xuất và đời sống. Cơ chế đặt hàng là các cơ quan đặt hàng phải có đủ nguồn lực và quyền lực để khi tiếp nhận kết quả nghiên cứuthì ứng dụng được, đầu tư tiếp tục cho nó để nó trở thành sản phẩm hàng hóa phục vụ xã hội.

-Hai là cơ chế khoán chi,có nghĩa là các nhà khoa học khi bàn giao cho Nhà nước sản phẩm nghiên cứu của mình đúng với tiêu chí cam kết ban đầu, đúng với  hợp đồng khoa học đã ký kết thì Nhà nước cho thanh quyết toán, thanh lý hợp đồng mà không cần những chứng từ trung gian, không cần những chứng từ mà phải nói dối, họp 1 buổi ký 3 tờ, đi công tác 1 ngày thì lấy hóa đơn 5 ngày bởi vì định mức quá thấp, phải làm nhiều thủ tục khác rất vất vả với rất nhiều hóa đơn chứng từ. Về  cơ chế  quỹ, từ trước chúng ta làm đề tài dùng tiền ngân sách là chính mà ngân sách thường là cấp rất muộn, nhiều đề tài được phê duyệt phải chờ kinh phí từ 1-2 năm, bây giờ với cơ chế quỹ từ hệ thống quốc gia đến các bộ ngành, tỉnh, thành phố các để tài sẽ được cấp tiền ngay sau khi được phê duyệt và ký hợp đồng, các nhà khoa học có thể thực hiện ngay ý tưởng của mình mà không bị mất thời cơ, không bị mất thị trường.

- Thứ ba là chính sách đãi ngộ và trọng dụng cán bộ khoa học, Nghị định số 40 của Chính phủ từ tháng 5/2014 đã cho những cơ chế chính sách mới và chúng tôi cố gắng nghiên cứu áp dụng thông lệ quốc tế và rất tiếc thông tư nghị định này nằm ở Bộ nội vụ 1 năm nay rồi mà chưa ban hành, đây là thông tư liên tịch 3 Bộ KH& CN, tài chính và nội vụ. Trong đó giao quyền tự chủ cho các nhà khoa học, tập trung ưu đãi 3 đối tượng chính trong những người làm khoa học, đó là các nhà khoan học đầu ngành, các nhà khoa học được giao các chương trình đề tài, đề án quốc gia và các nhà khoa học trẻ tài năng, tất nhiên VN còn là nước nghèo chúng ta chỉ có thể hỗ trợ với mức nhất định,nhưng nếu thực hiện tốt cơ chế đãi ngộ này chúng tôi tin rằng nhiều nhà khoa học của chúng ta sẽ có những sản phẩm xứng tầm đóng góp cho nền KHCN của đất nước. Chi tiết cụ thể chúng tôi có đăng các dự thảo này trên cổng thông tin điện tử của bộ, sắp tới khi được ban hành ngoài NĐ 40 thì thông tin liên tịch 3 Bộ được ban hành thì chúng ta sẽ có chính sách đãi ngộ cụ thể. Đây là trụ cột thứ ba và là món nợ thứ hai chúng tôi cố gắng trả cho các nhà KH.

Giải pháp trước mắt

Cuối năm 2015, chúng ta trở thành thành viên của cộng đồng kinh tế SEAN, chúng ta vừa ký 1 loạt hiệp định thương mâi tự do với Hàn Quốc, với liên minh Á Âu, đã kết thúc  đàm phán hiệp định thương mại tự do với liên minh châu Âu, kết thúc đàm phán TPP… Kinh tế VN sẽ có những cơ hội phát triển, nhưng chúng ta cũng phải nhìn thấy mặt trái của các hiệp định thương mại tự do. Trong những năm tới, việc đầu tiên  mà KH & CN phải làm là phải đổi mới tư duy triệt để, phải có tư quy quản lý KHCN, nghiên cứu KHCN là tư duy kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Chúng ta không thể làm khoa học  theo cách chúng ta vẫn làm từ trước đến nay, đây là điều khó nhất, nhất là những người làm quản lý KHCN để thay đổi tư duy từ bỏ lợi ích cá nhân, của nhóm, của ngành là điều không dễ dàng, làm thế nào tạo điều kiện thuận lợi nhất cho những người làm khoa học, để họ tự do sáng tạo, họ đáp ứng được nhu cầu thị trường, họ có thu nhập từ  nghiên cứu, từ tài sản trí tuệ của họ chứ không phải như hiện nay họ chỉ sống bằng tiền lương cơ bản không có phụ cấp, và kết quả nghiên cứu không bán được và nếu có bán thì bán chui không phải là bán chính thức, bởi vì không có cơ chế để giao quyền sở hữu, giao chủ sở hữu cho những người làm khoa học , vì theo nguyên tắc là ai bỏ tiền thì  người đó làm chủ sở hữu, đề tài dự án của chúng ta dùng ngân sách nhà nước thì Nhà nước là chủ sở hữu, nên nếu Nhà nước không có cơ chế giao quyền sở hữu ấy,cho phép các nhà khoa học có thể góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ, bằng kết quả nghiên cứu, cho phép các nhà khoa học có thể chuyển nhượng kết quả nghiên cứu của mình cho doanh nghiệp thì các nhà khoa học không bao giờ sống được bằng chất xám của mình. Bộ KH & CN đã có những quy định về giao quyền sở hữu cho các cơ quan chủ trì các đề tài KHCN cấp NN, cấp bộ, và phân cấp các thẩm quyền ấy cho bộ trưởng các bộ, khi các nhà khoa học có nhu cầu góp vốn hoặc chuyển nhượng cho doanh nghiệp, hoặc tự mình dùng tài sản trí tuệ để lập doanh nghiệp thì được làm chủ sở hữu tài sản trí tuệ được hình thành từ ngân sách nhà nước, rồi tư duy đánh giá hoạt động KHCN bằng hiệu quả chứ không phải bằng chứng từ, bằng kết quả nghiên cứu là tư duy khó, người ta sợ chúng ta lãng phí tiền ngân sách, rất sợ bị lợi dụng cơ chế thông thoáng để tham nhũng, lãng phí, nhưng chúng tôi phải thuyết phục chính phủ, quốc hội là nghiên cứu dành cho KHCN là rất nhỏ, những người làm KHCN là những người có trình độ, có lòng tự trọng, chắc chắn có xảy ra tham nhũng cũng không thể nhiều hơn các lĩnh vực khác. Hãy mạnh dạn giao cho họ đi, bởi vì cả thế giới làm KHCN là đầu tư mạo hiểm, và bản thân thuật ngữ đầu tư mạo hiểm đã bao hàm ý là không phải lúc nào cũng thành công, và nếu coi thất bại trong KH là lãng phí là tham những thì không đúng. Chúng ta chấp nhận đầu tư mạo hiểm, các trường ĐH phải là nơi sản sinh ra nhiều nhất các doanh nghiệp khởi nghiệp, các bằng sáng chế và các công bố quốc tế…

Việc làm thứ 2 của chúng ta là hướng đến doanh nghiệp, phải hình thành thị trường công nghệ trong đó có hệ sinh thái khởi nghiệp, gọi là Startup ecosystem, cái mà ở VN đang còn rất manh nha, thậm chí chưa có. Một thị trường công nghệ đầy đủ gồm 4 thành phố chính, nguồn cung là các viện các trường, các nhà khoa học; nguồn cầu là doanh nghiệp, các định chế trung gian, tức là các tổ chức dịch vụ trong thị trường để kết nối giữa nguồn cung và nguồn cầu bao gồm các tổ chức tư vấn, đánh giá, thẩm định giám định, các sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức trung gian… Tiếp theo là tạo môi trường pháp lý thuận lợi nhất, chúng ta còn thiếu rất nhiều trong thị trường công nghệ, trong thời gian rất ngắn chúng ta phải xây dựng thị trường này với vô vàn khó khăn, nhất là khi chúng ta tham gia TPP, bởi vì khâu vướng mắc nhất trong TPP và khâu mấu chốt cuối cùng là vấn đề sở hữu trí tuệ. Chúng ta chưa lường hết những khó khăn đó vì phải đấu tranh với các đối tác hàng ngày để làm sao dành được những cơ chế ưu đãi trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, để doanh nghiệp Việt Nam có thể tồn tại khi tham gia TPP. Ví dụ người ta đặt vấn đề là chúng ta phải hình sự hóa các hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ khi doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại VN, hiện nay luật pháp của ta chỉ chỉ xử phạt vi phạm hành chính, nên người ta thường vi phạm và liên tục vi phạm vì xử phạt quá nhẹ. Lợi nhuận người ta thu được do vi phạm nhiều gấp hàng trăm lần tiền xử phạt của luật pháp, nhưng khi xử phạt bằng hình sự thì chắc chắn khắc nghiệt hơn nhiều, nhưng làm sao chúng ta xử lý hình sự được khi chúng ta không có tòa án chuyên ngành về sở hữu trí tuệ, chưa có thẩm phán đào tạo về sở hữu trí tuệ và gần như chúng ta chưa có những tổ chức giám định về sở hữu trí tuệ để phục vụ cho công tác xét xử, để làm được việc này chúng ta phải mất hàng chục năm, trong khi chúng ta gần như 2 con số không, những thách thức rất lớn, nếu chúng ta cam kết rồi mà không thực hiện chúng ta sẽ thua thiệt ngay trên sân nhà, nhưng để thực hiện được cam kết đó chúng phải nỗ lực rất nhiều, phải đầu tư rất nhiều kể cả ngân sách nhà nước và xã hội.

Việc thứ 3 chúng ta phải làm là nhanh chóng có nguồn nhân lực chất lượng cao, hệ thống  các trường ĐH là những cơ quan phải đảm đương việc này .Làm sao trong những năm tới trình độ khoa học công nghệ của VN phải nâng cao hơn, đội ngũ nhân lực kể cả nhân lực lao động trong các doanh nghiệp đến nhân lực nghiên cứu ở các viện, trường, nhân lực quản lý trong các cơ quan, tổ chức phải được nâng lên 1 bước, đây cũng là 1 thách thức rất lớn đối với 1 nước còn đang rất khó khăn như Việt Nam.

CN_2

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Làm thế nào để phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam?
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO