Theo nhóm nghiên cứu Cao Mỹ Khanh và Nguyễn Đức Toàn, Trường đại học Cần Thơ, các di sản văn hóa (DSVH) ở ĐBSCL không chỉ có giá trị trong việc giáo dục tri thức, hình thành nhân cách con người mà còn đã và đang phát huy vai trò, tiềm năng, thế mạnh của mình trong hoạt động du lịch. Những DSVH, đặc biệt là DSVH phi vật thể như các loại hình trình diễn nghệ thuật, phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, ẩm thực, lễ hội, làng nghề... đều là những yếu tố cốt lõi tạo nên sự hấp dẫn và độc đáo để thu hút du khách trong và ngoài nước đến với ĐBSCL.
Văn hóa sông nước và chợ nổi
ĐBSCL là vùng đồng bằng châu thổ với hệ sống sông ngòi chằng chịt. Đặc điểm tự nhiên cũng đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành nền văn hóa sông nước nơi đây. Phương thức diễn đạt của người dân chủ yếu là dùng những hình ảnh, hoạt động, tính chất có liên quan đến vùng sông rạch để so sánh hoặc tạo ra lối nói ẩn dụ hoặc hoán dụ. Chẳng hạn thay vì gọi là anh em rể thì người dân gọi là anh em cột chèo; lớn và ròng dùng để chỉ chu kỳ của con nước cũng được dùng để hình dung những giai đoạn thăng trầm của con người...
Văn hóa sông nước còn thể hiện ở nét văn hóa miệt vườn. Vườn tược nơi đây được tập trung lại với nhau thành không gian rộng lớn thành những vườn cây trái xanh mướt với những loại trái đặc trưng như: sầu riêng, nhãn, vú sữa, chôm chôm... Du lịch miệt vườn không phải là điều mới lạ đối với du khách người Việt nhưng lại rất hấp dẫn với du khách nước ngoài bởi du lịch ở đây tập trung đi vào khai thác thiên nhiên sông nước và đời sống dân dã. Mùa nào thức ấy cùng với sự màu mỡ của phù sa hai bờ sông Tiền, sông Hậu đã góp phần tạo nên sự nổi tiếng của cây trái nơi đây: Vĩnh Long với đặc sản bưởi Năm Roi, chôm chôm, long nhãn; Tiền Giang nổi tiếng với vú sữa Lò Rèn, sầu riêng Cái Mơn; hay thành phố Cần Thơ đậm đà với những vườn dâu Hạ Châu Phong Điền... Tận mắt ngắm nhìn những vườn cây trĩu quả, thưởng thức hương vị ngọt ngào thơm ngon của cây trái miền sông nước, lắng nghe vọng cổ, cải lương... đó chính là những sản phẩm du lịch đặc trưng và hấp dẫn trong các chương trình du lịch miền Tây.
Văn hóa sông nước còn hình thành nên nét sinh hoạt đặc trưng mà không nơi nào ở Việt Nam có được, đó là chợ nổi. Thăm chợ nổi, du khách mới thấy được sự sung túc của đời sống nơi miền sông nước. Chợ là nơi mua bán thật sự của người dân địa phương, họ đến để trao đổi sản vật... Ghe xuồng được trang trí khác nhau theo từng địa phương và những người thương hồ treo sản vật muốn bán tượng trưng trên các cây bẹo. Có nhiều chợ nổi ở ĐBSCL được hình thành từ lâu đời và hiện nay đã được khai thác vào trong hoạt động du lịch như chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ), chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu Giang)... Tạp chí du lịch Rough Guide (Anh) đã bình chọn chợ nổi Cái Răng là một trong 10 khu chợ ấn tượng nhất thế giới, và được mô tả là điểm đặc biệt lạ mắt với các thuyền bán hàng “rực rỡ sắc màu nhiệt đới”. Trang web youramazingplaces cũng đưa ra danh sách 6 chợ nổi đẹp nhất châu Á, trong đó có đề cập đến chợ nổi của khu vực ĐBSCL, mà chợ nổi Cái Răng là một điển hình.
Kho tàng lễ hội phong phú và độc đáo
Lễ hội có tính hấp dẫn cao đối với du khách. Hiện nay, ĐBSCL có 1.234 lễ hội, trong đó lễ hội dân gian chiếm số lượng cao nhất 856 (69,36%). Một số lễ hội cấp quốc gia tiêu biểu của vùng có thể kể đến như Lễ hội vía Bà chúa xứ Núi Sam (Châu Đốc, An Giang), lễ hội kỷ niệm anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá, Kiên Giang), Lễ hội Nghinh Ông (Cà Mau)... Kho tàng lễ hội phong phú và độc đáo của các dân tộc ở ĐBSCL không chỉ có giá trị như những DSVH phi vật thể cần được bảo tồn và phát huy để phục vụ đời sống tinh thần, tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng cư dân mà nó còn là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn hoàn toàn có thể khai thác chúng thành những sản phẩm du lịch hấp dẫn, độc đáo phục vụ cho du khách trong và ngoài nước.
Đến làng nghề để trải nghiệm tạo ra những sản phẩm
ĐBSCL vốn có tiềm năng du lịch làng nghề. ĐBSCL hiện có hàng trăm làng nghề truyền thống hay mới hình thành. Các làng nghề là nguồn tạo công ăn việc làm cho lao động tại chỗ đồng thời cũng là tài nguyên để hình thành nên sản phẩm du lịch. Các làng nghề truyền thống như làng kiểng Mai vàng Phước Định (Long Hồ, Vĩnh Long), làng Hoa kiểng Vĩnh Thành (Chợ Lách, Bến Tre), làng nghề tủ thờ Gò Công (Tiền Giang), làng dệt chiếu Long Định, làng bàng buông Thân Cửu Nghĩa (Châu Thành, Tiền Giang)... Một số làng nghề trở thành điểm tham quan chính trong các chương trình du lịch tại địa phương, có thể kể đến làng nghề sản xuất nước mắm truyền thống Phú Quốc, làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp), làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc (Bến Tre),...
Các làng nghề này, ngoài uy tín thương hiệu truyền thống, còn có một lực lượng lao động đông đảo có tay nghề cao nên việc duy trì và phát triển làng nghề có được sự phát triển ổn định. Bên cạnh đó, làng nghề bánh tráng, hay các cơ sở sản xuất kẹo dừa, bánh, cốm ở Bến Tre, Tiền Giang cũng là những điểm đến của khách du lịch. Họ không chỉ tham quan quy trình sản xuất, thẩm nhận các giá trị văn hóa, mua sắm các sản phẩm đặc trưng nơi mình đến mà còn có cơ hội trải nghiệm để tạo ra những sản phẩm này. Mỗi làng nghề có một loại sản phẩm riêng biệt đặc trưng cho mỗi tỉnh trong vùng. Một số tỉnh ở vùng ĐBSCL có thể nắm bắt các cơ hội từ phát triển du lịch địa phương, thu hút khách du lịch bằng các mặt hàng thủ công mỹ nghệ đặc biệt của mình. Ngược lại khách du lịch cũng có thể giúp quảng bá cho làng nghề thủ công truyền thống một cách rất hiệu quả. Ngoài sự đóng góp về kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, là điểm đến trong các chương trình du lịch, làng nghề truyền thống ĐBSCL hiện đang gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa - lịch sử về đất nước và con người vùng miệt vườn sông nước.
Đặc sản ẩm thực
Hoàn cảnh lịch sử - xã hội, điều kiện địa lý - tự nhiên là những yếu tố tác động sâu sắc đến ẩm thực của vùng ĐBSCL. Ẩm thực nơi đây vừa là truyền thống vừa có sự tiếp biến với các yếu tố văn hóa ẩm thực riêng biệt của người Kinh, Chăm, Khmer, Hoa tạo nên những nét đa dạng, đặc sắc và không bị nhầm lẫn với ẩm thực của các vùng miền khác. Chẳng hạn món canh chua, bún nước lèo hay lẩu mắm đặc trưng của Nam Bộ vốn có nguồn gốc từ người Khmer nhưng đã được tiếp thu và cải biến cho hợp với khẩu vị của người Việt, hiện nay đã trở thành thương hiệu đặc sản của vùng.
Những yếu tố về lịch sử liên quan đến quá trình khai khẩn miền đồng bằng sông nước này với các lớp cư dân đầu tiên đến từ Bắc Bộ và Trung Bộ góp phần giúp cho ẩm thực của nơi đây vẫn lưu giữ tập tục ăn uống cổ truyền thông qua hình thức cúng việc lề với món cá nấu ám, đồng thời cũng có sự cải tiến món ăn cho phù hợp với điều kiện môi trường mới như món bánh xèo là dị bản của món bánh khoái (bánh khói) miền Trung. Với điều kiện địa lý - tự nhiên, địa hình đa dạng khiến nền ẩm thực ĐBSCL có nhiều món ăn có nguồn gốc từ núi, biển, đồng bằng và sông rạch.
Với nguồn lợi thủy sản dồi dào hình thành cho người dân kỹ thuật chế biến rất phong phú như làm các món mắm (mắm thái Châu Đốc, mắm ruột cá Đồng Tháp, mắm ruốc Kiên Giang...), làm khô các loại cá đồng, các biển (khô các lóc, cá tra, cá khoai, khô mực...), đặc biệt hơn, họ còn sử dụng phương pháp ủ cá để tạo nên nước mắm - một gia vị không thể thiếu trong bữa cơm người Kinh ở ĐBSCL, nổi tiếng có nước mắm Phú Quốc, nước mắm Hòn Sơn. Đặc biệt, cứ mỗi dịp mùa nước nổi tràn về, du khách lại có dịp thưởng thức những món ăn đặc trưng cho mùa nước nổi nơi đây, đó là các món được chế biến từ cá linh như cá linh kho mía, canh chua cá linh bông điên điển, bông súng trắng và nhiều món ăn hấp dẫn khác... Đơn giản nhưng mang lại những nét chấm phá thú vị cho ẩm thực của vùng. Không chỉ có ẩm thực của người Kinh, những món đặc sản của các dân tộc Hoa, Khmer, Chăm đã và đang làm giàu thêm cho ẩm thực của vùng đất này. Các món tung lò mò, cà ri, cà púa, cơm nị của người Chăm; bún nước lèo, lẩu mắm, canh xiêm lo của người Khmer hay các món bánh của người Hoa đã tạo nên những nét riêng, sắc thái riêng cho miền đồng bằng sông nước.