Dấu ấn khôi phục và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ

Mai Thy - Nhật Quang| 28/07/2016 15:27

(KHPT) Với diện tích hơn 37.000 ha, rừng ngập mặn Cần Giờ được xem là “lá phổi xanh” của TP.HCM và là nơi lưu giữ nhiều gen động thực vật quý hiếm. Năm 2000, rừng ngập mặn Cần Giờ được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Nhiều nhà khoa học thế giới đã đến đây và cho rằng: rừng ngập mặn Cần Giờ ngày nay không chỉ là tài sản riêng của Việt Nam mà đã trở thành tài sản chung của nhân loại, trong mạng lưới các khu dự trữ sinh quyển thế giới... Thành công này thể hiện tầm nhìn chiến lược về kinh tế - xã hội của lãnh đạo thành phố và là tâm huyết của các nhà khoa học.

Khi hệ sinh thái bị tàn phá

Rừng ngập mặn Cần Giờ trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ là đường giao thông huyết mạch, là cửa ngõ yết hầu vào Sài Gòn. Bộ đội đặc công, nhân dân Cần Giờ đã chiến đấu anh dũng trên mảnh đất này, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề. Ðể bảo vệ vị trí chiến lược, người Mỹ đã biến rừng ngập mặn Cần Giờ thành "sa mạc mặn" bằng hàng chục ngàn quả bom, đạn và hàng triệu lít hóa chất khai hoang... Môi trường sinh thái của rừng Cần Giờ đã hoàn toàn thay đổi. Đất rừng do không còn hệ thống cây rừng điều hòa dòng chảy nên độ mặn của nước biển có năm lên đến 18 - 22%, rất bất lợi cho cây trồng, vật nuôi, nông - lâm - ngư nghiệp. Độ mặn, phèn của đất rừng ngập mặn tăng cao đã làm thay đổi hoàn toàn tính chất hóa lý của đất. Muốn phục hồi phải mất vài chục năm hoặc lâu hơn nữa mới cải thiện được, nếu rừng không được trồng lại sớm.

Một thiệt hại nghiêm trọng dễ nhận thấy là một khối lượng to lớn đất mùn bị xói mòn cuốn trôi nhanh chóng. Nếu tính mỗi năm mất đi 1 cm chiều cao mặt đất rừng, thì với 30.000 ha rừng ngập mặn Cần Giờ, phải mất đi đến 3.000.000 m3/năm đất mùn bị cuốn trôi ra biển. Hậu quả để lại là mặt sét pha cát cằn cỗi, nứt nẻ, mặn phèn, hoang mạc hóa. Nếu có gió bão, sóng thần thì rừng không còn là “tấm chắn xanh” vững chắc để bảo vệ dân cư, tài sản vùng ven biển Cần Giờ và TP.HCM những năm sau chiến tranh nếu rừng không phục hồi nhanh.

Quyết tâm của lãnh đạo thành phố và các nhà khoa học

Sau ngày miền Nam được giải phóng, năm 1978, Thành ủy và UBND TP.HCM đã thành lập Lâm trường Duyên Hải (đóng tại Cần Giờ - thuộc Ty lâm nghiệp) với nhiệm vụ khôi phục lại hệ sinh thái ngập mặn Cần Giờ. Công trình khôi phục và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ được TP.HCM tiến hành từ tháng 5/1978 đến 1/2000 do các tác giả: TS. Lê Văn Khôi, KS. Nguyễn Ðình Cường, KS. Nguyễn Minh Hải, KS. Lê Thị Liên, KS. Nguyễn Ngọc Nam, KS. Nguyễn Ðình Quý, CN Lê Văn Sinh, CN Ðoàn Văn Thu, ThS. Lê Ðức Tuấn đã mang lại kết quả thiết thực.

Công trình đặt ra mục tiêu phải hồi phục rừng ngập mặn với tốc độ nhanh trong những năm đầu tiên; xác định được các giải pháp kỹ thuật phù hợp (giống tốt, vùng trồng thích hợp, tổ chức thi công nhanh, chăm sóc và bảo vệ rừng trồng tốt); có các biện pháp kỹ thuật tác động để rừng tăng tuổi nhanh, sớm cung cấp một phần nhu cầu chất đốt và vật liệu xây dựng cho dân cư trong vùng, đồng thời tạo ra một môi trường thuận lợi cho các loài thủy sản nước lợ sinh sôi phát triển, giải quyết một phần thực phẩm cho nhân dân; sau khi phủ xanh các tiểu khu rừng, các năm tiếp theo tiến hành công tác điều chế, chăm sóc nuôi dưỡng rừng bằng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh theo hướng đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên, phục vụ cho nghỉ dưỡng, tham quan, học tập, nghiên cứu khoa học cho sinh viên.

Một trong những kết quả nghiên cứu nổi bật của nhóm tác giả là chọn được loài cây trồng thích hợp, với phương châm "đất nào cây đó". Các nhà khoa học sau khi đi điều tra, khảo sát thực địa, nghiên cứu các khu rừng ngập mặn ở Cà Mau, Bến Tre... đồng thời nghiên cứu tài liệu liên quan tình hình sinh trưởng, phát triển của rừng Cần Giờ trước đây, đã chọn cây đước là cây được trồng chủ yếu. Cây đước có thể sinh trưởng và phát triển tốt trên các vùng đất phù sa, sình lầy, bùn chặt, chịu ảnh hưởng của thủy triều với độ mặn từ 10 đến 25%. Nguồn giống trái đước ở Cà Mau có thể cung cấp đủ số lượng để trồng lại rừng đước ở Cần Giờ. Sau cây đước, các nhà khoa học đã cho trồng các loài cây: vẹt, dà vôi, gõ biển, su ổi, cóc... trên những vùng đất ẩm, ổn định, ít ngập triều, nước lợ...

TS. Lê Văn Khôi, nhà khoa học đứng đầu nhóm thực hiện công trình khôi phục và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ nhớ lại: “Công trình đã được tiến hành suốt 22 năm liên tục trong điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp những năm sau chiến tranh, trên nền cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng cơ sở xã hội hầu như không có gì. Các nhà sinh thái học người Mỹ đã đến khu rừng ngập mặn Cần Giờ sau khi bị phá hủy hoàn toàn bởi chất độc hóa học, khoảng giữa thập niên 70 thế kỷ 20 đã phát biểu ước tính: cần khoảng 100 năm để phục hồi lại hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ. Phát biểu này cho thấy việc khôi phục và phát triển bền vững hệ sinh thái rừng là một công việc không dễ dàng và vượt quá khả năng của nhân dân thành phố lúc bấy giờ”.

Giá trị lớn về kinh tế và môi trường

Từ lúc bắt đầu trồng lại rừng vào năm 1978 đến năm 2000, diện tích trồng rừng và tái sinh tự nhiên thành rừng khoảng 30.000 ha, gần bằng với diện tích rừng tự nhiên đã có trước chiến tranh. Rừng ngập mặn Cần Giờ ngày nay thực sự đã trở thành “lá phổi xanh” của TP.HCM. Tán cây rừng dày kín là một “nhà máy khổng lồ” hấp thụ CO2 và cung cấp O2 quan trọng cho thành phố. Căn cứ theo số liệu khoa học của một đề tài nghiên cứu cho thấy, trên 1 ha rừng Cần Giờ mỗi năm hấp thu đến 20.328 tấn CO2 và đồng thời sinh ra 13.552 tấn O2 cung cấp cho TP.HCM. Rừng Cần Giờ sau khi được phục hồi còn là môi trường lý tưởng lọc nước thải từ TP.HCM, các khu công nghiệp Bình Dương, Biên Hòa đưa xuống trước khi ra biển và là môi trường thuận lợi để đào tạo, nghiên cứu khoa học cho các nhà khoa học, sinh viên trong và ngoài nước.

Ngoài ra, rừng ngập mặn cũng đã góp phần quan trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái trong khu vực. Sau 22 năm khôi phục rừng ngập mặn, các quần xã thực vật từ chỗ biến mất nay đã hình thành theo diễn thế tự nhiên của rừng, đúng với quy luật sinh thái với 42 loài thuộc 35 chi, 24 họ. Như vậy, so với rừng ngập mặn ở các nước Đông Nam Á thì hầu hết các loài thực vật chủ yếu đều có ở rừng ngập mặn Cần Giờ. Các quần xã thực vật rừng ngập mặn thứ sinh có quan hệ chặt chẽ với chế độ ngập triều, thể nền và tính chất hóa lý của đất, có thể kể đến như: mấm trắng, bần trắng, đước đôi, mấm đen, dà vôi, giá, chà là, ráng... Khu hệ động vật không xương sống, thủy sinh có 70 loài thuộc 44 họ: cua biển, tôm sú, tôm thẻ, sò huyết... Khu hệ cá có 137 loài thuộc 39 họ: cá ngát, cá bông lau, cá dứa... Khu hệ lưỡng thê, bò sát có 9 loài lưỡng thê, 31 loài bò sát: kỳ đà nước, hổ mang chúa, trăn gấm, cá sấu hoa cà... Khu hệ chim có 130 loài, 47 họ, 17 bộ: bồ nông chân xám, diệc xám, giang sen, già đãy, vạc... Khu hệ thú có 19 loài, thuộc 13 họ, 7 bộ: mèo rừng, khỉ đuôi dài, nhím...

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Dấu ấn khôi phục và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO