Y học

Bộ Y tế: Dùng muối i-ốt không gia tăng nguy cơ mắc cường giáp hoặc bệnh lý do thừa i-ốt

Hương Cát 07/11/2024 - 16:34

Bộ Y tế khẳng định không có bất kỳ lo ngại nào liên quan đến việc toàn dân sử dụng muối i-ốt. Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp người dân thừa i-ốt.

Lập luận thiếu cơ sở khoa học, bằng chứng của một số cá nhân, doanh nghiệp trong thời gian qua đã gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng không tốt đến các nỗ lực phòng, chống các rối loạn thiếu i-ốt. Cho đến nay, chưa có y văn nào đề cập chương trình sử dụng muối i-ốt toàn dân (từ năm 1994 đến nay) dẫn đến hệ quả về bệnh lý tuyến giáp.

Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp bệnh do thừa i-ốt

Thông tin từ Bộ Y tế, theo báo cáo của Bệnh viện Nội tiết Trung ương và Viện Dinh dưỡng, hiện nay Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp bệnh nhân thừa i-ốt.

Kết quả tổng điều tra Dinh dưỡng năm 2019 - 2020 cho thấy, ở tất cả các nhóm đối tượng, mức trung vị i-ốt niệu đều thấp hơn so với khoảng an toàn theo khuyến cáo của WHO là 100 - 199mcg/l. Tỷ lệ người có nồng độ i-ốt niệu vượt quá ngưỡng 300 ppm là 0% (ngưỡng > 300ppm là ngưỡng có i-ốt niệu cao).

buou-co(1).jpg
Thông tin từ Bộ Y tế, theo báo cáo của Bệnh viện Nội tiết Trung ương và Viện Dinh dưỡng, hiện nay Việt Nam chưa ghi nhận trường hợp bệnh nhân thừa i-ốt. Ảnh minh họa

Với kết quả này, khẳng định quần thể người dân Việt Nam vẫn còn chưa đạt đủ lượng i-ốt tiêu thụ hằng ngày so với khuyến nghị.

Bản thân thiếu i-ốt hoặc i-ốt cao gây ra các bệnh về tuyến giáp cũng được xếp vào hậu quả của thiếu i-ốt, đây là đánh giá xếp loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Trên vùng thiếu i-ốt nặng sẽ gây ra tăng tỷ lệ cường giáp trên những nhân tuyến giáp tự miễn và trên những người bị cường giáp dưới lâm sàng khi thực hiện bổ sung i-ốt.

Theo WHO, sau 5-10 năm bổ sung i-ốt thường xuyên, tỷ lệ mắc cường giáp sẽ suy giảm, tương ứng với những vùng không bị thiếu i-ốt. Cường giáp là bệnh tự miễn, điều trị nội khoa bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp là chủ yếu. Nếu điều trị nội khoa thất bại hoặc yếu tố miễn dịch vẫn còn cao sau thời gian dài điều trị nội khoa, nên lựa chọn phẫu thuật hoặc điều trị xạ.

Ung thư tuyến giáp là bệnh ác tính thường gặp nhất của hệ nội tiết, đang có xu hướng gia tăng trên toàn cầu. Theo số liệu GLOBOCAN năm 2020 của Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu về Ung thư (IARC), ung thư tuyến giáp đứng hàng 11 về số ca mắc mới ung thư, chiếm 3% trong tổng số ca mắc mới của tất cả các loại ung thư.

Tại Mỹ, tỷ lệ mắc mới tăng từ 4,9 lên 14,3 trên 100.000 người (tăng 9,4/100.000 người) trong giai đoạn 1975 – 2009. Tại Việt Nam, theo GLOBOCAN năm 2020, cũng như tình hình trên thế giới, ung thư tuyến giáp đứng hàng thứ 10 về số ca mắc mới, đứng thứ 6 ở nữ giới về tỷ lệ mắc mới trong tất các loại ung thư, gấp 4 lần so với nam giới.

Nguyên nhân ung thư tăng do sự phát triển phát triển kỹ thuật và ý thức của người dân khám phát hiện sớm. Chưa có tài liệu khoa học nào khẳng định thừa i-ốt gây ra ung thư tuyến giáp.

muoi-i-ot(1).jpg
Bộ Y tế khẳng định không có bất kỳ lo ngại nào liên quan đến việc toàn dân sử dụng muối i-ốt.

WHO và các cơ quan nghiên cứu khác nhấn mạnh rằng tăng cường vi chất dinh dưỡng trên quy mô lớn là một biện pháp can thiệp y tế công cộng hiệu quả nhằm ngăn ngừa thiếu hụt vi chất dinh dưỡng (VCDD), phù hợp với cam kết chung Thập kỷ Hành động vì Dinh dưỡng của Liên Hợp Quốc và các khuyến nghị hiện tại của WHO. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc tăng cường VCDD vào thực phẩm để giải quyết tình trạng thiếu VCDD phổ biến trên toàn cầu không dẫn đến bất kỳ nguy cơ nào về độc tính hay bổ sung quá mức.

Thiếu hụt i-ốt đang xảy ra ở 6 vùng sinh thái, bao gồm Duyên hải miền Trung

Trước đó, theo một điều tra dịch tễ năm 1994, tình trạng thiếu iốt trên quy mô toàn quốc và kết quả cho thấy 94% dân số nằm trong vùng thiếu iốt (tình trạng thiếu i-ốt ở Việt Nam mang tính toàn quốc, không kể miền núi, thành thị hay vùng đồng bằng, ven biển), tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8 - 12 tuổi 22,4% (khuyến nghị của WHO chỉ là <5%).

Chính vì tình hình thiếu i-ốt nghiêm trọng, ngày 8//9/1994, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 481/TTg về việc tổ chức và vận động toàn dân ăn muối i-ốt. Sau 05 năm sau, ngày 10/4/1999, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 19/1999/NĐ-CP về việc sản xuất và cung ứng muối i-ốt cho người ăn thay thế Quyết định số 481/TTg.

Nghị định này quy định bắt buộc muối dùng cho người ăn, bao gồm cả muối thực phẩm phải là muối i-ốt. Vì vậy, sau 6 năm triển khai thi hành Nghị định này, Việt Nam đã thanh toán được tình trạng thiếu i-ốt và đạt được các tiêu chuẩn quốc tế vào năm 2005: tỷ lệ bao phủ với muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh ≥ 90%, mức trung vị i-ốt niệu ≥ 100 mcg/l và tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8-10 tuổi < 5%.

muoi-i-ot.jpg
Việt Nam vẫn thuộc nhóm quốc gia thiếu i-ốt

Tháng 12/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định 163/2005/NĐ-CP thay thế Nghị định số 19/1999/NĐ-CP để chuyển sang cơ chế quản lý mới, Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống các rối loạn thiếu i-ốt trở thành hoạt động thường quy của Bộ Y tế và các bộ, ngành có liên quan.

Nhưng sau 9 năm thi hành Nghị định này, cả nước chưa đến 50% tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ bao phủ muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh (mức khuyến cáo của WHO là tỷ lệ bao phủ muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh phải đạt >90%), mức trung vị i-ốt niệu là 84 mcg/l, thấp hơn khoảng an toàn theo khuyến cáo của WHO (100-199 mcg/l).

Năm 2014-2015, tỷ lệ bướu cổ trẻ em 8- 10 tuổi đã tăng lên 8,3% (điều tra trên quy mô toàn quốc trên hàng nghìn trẻ). Khẳng định, Việt Nam thiếu i-ốt không chỉ ở miền núi mà còn thiếu ở cả các khu vực duyên hải miền trung (ven biển).

Trước tình trạng thiếu hụt i-ốt nghiêm trọng trong cộng đồng, ngày 28/1/2016, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 9/2016/NĐ-CP của Chính phủ về tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm.

Năm 2018, Bệnh viện Nội tiết Trung ương điều tra 6 vùng sinh thái trên toàn quốc cho thấy mức trung vị i-ốt niệu toàn quốc đã tăng (2014: 84 mcg/l) lên 97 mcg/l (điều tra trên 2.160 hộ gia đình), mặc dù vẫn dưới mức khuyến cáo của WHO (100-199 mcg/l). Tính theo các vùng sinh thái, chỉ có khu vực Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ đạt mức trung vị i-ốt niệu trên 100 mcg/l. Các khu vực khác, kể cả Duyên hải miền Trung (vùng ven biển) vẫn còn tình trạng thiếu i-ốt, bao gồm: Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.

Việt Nam vẫn thuộc nhóm quốc gia thiếu i-ốt

Hiện nay, theo Báo cáo 2021 của Mạng Lưới Toàn cầu về Phòng Chống các rối loạn do thiếu i-ốt, Việt Nam vẫn đang nằm trong nhóm 26 nước còn lại trên thế giới bị thiếu i-ốt. Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 - 2020 tại Việt Nam, trung vị i-ốt niệu của đối tượng trẻ em toàn quốc (trên 6 tuổi) là 113,3 mcg/l, trẻ em miền núi là 90,0 mcg/l, phụ nữ độ tuổi sinh đẻ là 98,9 mcg/l. Đối tượng phụ nữ có thai là 85,3 mcg/l trong khi mức khuyến cáo của WHO cho các đối tượng này là 150-249mgc/l.

Hộ gia đình sử dụng muối i-ốt đủ tiêu chuẩn chỉ chiếm 27%, trong khi khuyến cáo của WHO là phải trên 90%. Như vậy chỉ số trung vị i-ốt niệu và chỉ số hộ gia đình sử dụng muối i-ốt đủ tiêu chuẩn phòng bệnh đều đạt ở mức nguy cơ cận dưới và không đạt so với khuyến cáo của WHO.

Thiếu VCDD là “nạn đói tiềm ẩn” do khẩu phần của người dân Việt Nam hiện nay không đáp ứng đủ nhu cầu các vi chất dinh dưỡng thiết yếu. Tình trạng thiếu hụt iốt tại Việt Nam nghiêm trọng tới mức có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng.

Đại hội đồng Y tế Thế giới lần thứ 76 năm 2023 đã thông qua Nghị quyết về Đẩy mạnh phòng ngừa tình trạng thiếu VCDD thông qua việc tăng cường VCDD vào thực phẩm an toàn và hiệu quả.

WHO khuyến nghị mạnh mẽ việc tăng cường i-ốt cho tất cả muối ăn dùng trong hộ gia đình và chế biến thực phẩm: “Tất cả muối ăn, sử dụng trong gia đình và chế biến thực phẩm, đều cần được tăng cường i-ốt như một chiến lược an toàn và hiệu quả để phòng ngừa và kiểm soát các rối loạn do thiếu hụt i-ốt ở các quần thể sống trong môi trường ổn định và khẩn cấp”.

Trước ý kiến, kiến nghị liên quan đến việc sử dụng muối tăng cường i-ốt bị biến đổi về màu sắc, mùi vị hoặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người tiêu dùng của Hiệp hội, hội về thực phẩm trong thực hiện Nghị định số 09/2016/NĐ-CP, năm 2017, Bộ Y tế từng có công văn số 1216/BYT-PC.

Công văn nêu rõ: “Bộ Y tế (Cục An toàn thực phẩm và Vụ Pháp chế) chủ động tiếp nhận, hoan nghênh mọi thông tin, phản ánh của doanh nghiệp kèm theo các bằng chứng khoa học để có phương giải quyết kịp thời theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết nếu sản phẩm thực phẩm có sử dụng muối tăng cường i-ốt bị biến đổi về màu sắc, mùi vị hoặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người tiêu dùng”.

Tuy nhiên 8 năm nay, Bộ Y tế chưa nhận được bất kỳ bằng chứng khoa học nào của doanh nghiệp liên quan đến việc sử dụng muối tăng cường i-ốt bị biến đổi về màu sắc, mùi vị hoặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người tiêu dùng.

Tại buổi làm việc với doanh nghiệp vào ngày 30/10/2024 vừa qua, Lãnh đạo Bộ Y tế có ý kiến sẵn sàng phối hợp với các doanh nghiệp để tiến hành nghiên cứu thực tế tại cơ sở sản xuất có sử dụng muối i-ốt trong chế biến thực phẩm để làm rõ về ảnh hưởng của muối i-ốt đối với sản phẩm của doanh nghiệp.

Bộ Y tế khẳng định, trường hợp bằng chứng khoa học cho thấy việc sử dụng muối i-ốt làm thực phẩm bị biến đổi về màu sắc, mùi vị hoặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người tiêu dùng sẽ đề nghị Chính phủ loại trừ đối với các sản phẩm này trong Nghị định.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Bộ Y tế: Dùng muối i-ốt không gia tăng nguy cơ mắc cường giáp hoặc bệnh lý do thừa i-ốt
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO