Ở mảng này, Creo hoàn toàn chiếm ưu thế với hàng loạt công cụ thiết kế mạnh mẽ. Nó có thể thiết kế surface dạng bình thường (Pro/Surface) và surface ở dạng tự do (Interactive Surface Design Extension - Style). Đi kèm với thiết kế là những công cụ phân tích, tính toán để bảo đảm sản phẩm tạo thành đúng với yêu cầu người thiết kế cả về mặt kỹ thuật lẫn mỹ thuật.
Theo ý kiến cá nhân tôi, điểm yếu của Cimatron ở mảng này chính là việc nó không thể tạo ra đường Spline với những khả năng tùy biến cao trong khi việc thiết kế bề mặt đẹp hay xấu phụ thuộc rất lớn vào những đường spline này. Tuy nhiên, Cimatron lại có những ưu điểm nhất định trong việc xử lý bề mặt. Nói cách khác, dù nó không tạo mới được bề mặt nhưng khả năng chỉnh sửa thì có thể nói nó có phần ưu thế hơn Creo.
Được phát triển theo mô hình lai (hybrid model), Cimatron không phân biệt rõ ràng giữa solid và surface nên nó có khả năng can thiệp (sửa, xóa) đến bất cứ đối tượng nào mà nó nhận diện được. Hơn nữa, điểm mà tôi thích nhất ở Cimatron là nó có thể điều chỉnh dung sai động, nghĩa là bạn có thể điều chỉnh dung sai ở mỗi bước thực hiện. Rất nhanh và tiện lợi.
Thiết kế khuôn
Phần thiết kế khuôn này được thành 2 phần như sau:
- Thiết kế mặt phân khuôn: những thế mạnh của Creo Parametric ở thiết kế bề mặt được áp dụng triệt để vào việc thiết kế mặt phân khuôn vì suy cho cùng, thiết kế mặt phân khuôn chính là việc tạo ra những bề mặt bảo đảm 2 yếu tố: đẹp và dễ gia công. Tuy nhiên, sự ngặt nghèo về mặt nguyên tắc lại là một điểm yếu của Creo Parametric. Nếu mô hình đem đi phân khuôn chưa hoàn hảo (có khe hở, bề mặt bị nhăn)... thì người thiết kế sẽ rất mất thời gian để kiểm tra và chỉnh sửa. Những người đã từng làm việc với Creo Parametric chắc chắn đã gặp tình huống không kiểm tra thấy lỗi nhưng cứ thực hiện thao tác Volume Split là nhận được thông báo lỗi.
Tuy Cimatron không có nhiều công cụ thiết kế mặt như Creo Parametric nhưng nó vẫn có thể làm tốt việc tách khuôn vì thật ra, mặt phân khuôn không đòi hỏi những bề mặt quá phức tạp như bề mặt sản phẩm. Ngoài ra, nó còn có thêm ưu điểm nhờ vào khả năng chỉnh sửa bề mặt tốt nên trong tình huống sản phẩm bị lỗi, Cimatron có thể nhanh chóng sửa những lỗi này để đảm bảo việc thiết kế mặt phân khuôn được tiếp tục tiến hành. Và điểm mà tôi thích nhất khi thiết kế khuôn ở Cimatron là lỡ như mặt phân khuôn có bị hở một tí thì Cimatron vẫn cho phép tách khuôn (những thao tác chỉnh sửa có thể tiến hành sau cũng được). Tuy nhiên, tôi lại không thích việc phải tách sản phẩm thành các hướng mở khuôn (bằng công cụ QuickSplit) vì nếu gặp sản phẩm phức tạp sẽ khá mất thời gian trong khi với Creo Parametric, chỉ cần tạo ra mặt phân khuôn là có thể tách được khuôn rồi.
Tóm lại, ở phần thiết kế mặt phân khuôn, nếu như sản phẩm được thiết kế bởi Creo hoặc không bị lỗi, việc tách khuôn bằng Creo sẽ tốt hơn, nhưng nếu sản phẩm có nhiều lỗi thì làm việc với Cimatron lại là sự lựa chọn hợp lý hơn.
Thiết kế vỏ khuôn
Creo thiết kế vỏ khuôn bằng add-in Expert Moldbase Extention (EMX). Nó được cài đặt riêng chứ không nằm chung trong bộ cài tiêu chuẩn của Creo. Theo cảm nhận chủ quan của tôi, EMX làm việc không hiệu quả bởi giao diện không thân thiện và tính năng của nó không nhiều hơn là một thư viện chi tiết tiêu chuẩn (mà thư viện này cũng không phong phú). Việc tổ chức, quản lý mô hình lắp cũng không gọn gàng (cả các chi tiết được liệt kê toàn bộ trong Model Tree chứ không được phân loại theo từng cụm để thuận tiện cho việc quản lý, tắt bật hiển thị).
Cimatron hoàn toàn chiếm ưu thế trong việc thiết kế moldbase với một giao diện thân thiện, dễ quản lý. Thư viện chi tiết tiêu chuẩn phong phú và khả năng tùy biến cao. Quan trọng nhất là nó hoạt động ổn định hơn rất nhiều so với EMX do nó nằm luôn trong bộ cài đặt tiêu chuẩn của Cimatron.
Tuy nhiên, trong việc thiết kế áo khuôn, đối thủ lớn nhất của Creo Parametric không phải là Cimatron (hay ngược lại) vì cả hai phần mềm nói trên đều có một đối thủ chung là AutoCAD bởi ở Việt Nam, hầu như việc thiết kế khuôn trên phần mềm 3D chỉ dừng lại ở công đoạn tách ra các tấm khuôn đực và cái kèm theo các mảnh ghép. Những bước tiếp theo như thiết kế hệ thống dẫn nhựa, đường nước làm mát, hệ thống đẩy, trình bày bản vẽ đều được tiến hành trên AutoCAD. Khảo sát ý kiến của những nhân viên thiết kế khuôn, hầu hết câu trả lời mà tôi nhận được là do tốc độ làm việc trên AutoCAD 2D nhanh hơn nên khi đã quen với kết cấu khuôn, việc vẽ trên AutoCAD sẽ cho hiệu suất cao hơn. Ngoài ra, khả năng trình bày bản vẽ 2D của AutoCAD tốt hơn tất cả những module 2D Drawing của những phần mềm 3D (cái này chắc chẳng ai có thể phủ nhận được).
Lập trình gia công
Cả Creo và Cimatron đều thuộc nhóm phần mềm lập trình đa chức năng, nghĩa là có rất nhiều thông số gia công để bảo đảm việc tạo ra đường chạy dao đúng theo ý muốn của người lập trình. Tôi đã lập trình gia công trên cả 2 phần mềm này cũng như tham khảo ý kiến của những nhân viên lập trình khác thì thấy rằng cả 2 phần mềm này đều đáp ứng tốt cho việc lập trình gia công khuôn mẫu. Tất nhiên, mỗi phần mềm đều có những “luật chơi” riêng buộc người dùng phải hiểu và chấp nhận để có được kết quả như ý muốn. Chính sự không hiểu rõ những luật chơi này là nguyên nhân của những cuộc tranh luận kéo dài bất tận trên các diễn đàn CAD/CAM.
Tuy nhiên, Cimatron hiện đang có một ưu thế nhỏ (nhưng khá quan trọng) là có hầu hết bộ POST cho những hệ điều khiển thông dụng trên máy CNC như FANUC, Siemens, Heidenhain … trong khi Creo chỉ có bộ POST cho hệ điều khiển FANUC (thật ra chắc nó có đủ hết nhưng không được phổ biến rộng rãi mà thôi). May mắn thay, hầu hết máy CNC ở Việt <_st13a_place w:st="on">Nam đều dùng hệ điều khiển FANUC nên đây cũng không phải là vấn đề lớn lắm.

