Giải pháp mục tiêu giúp chuyển đổi kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp dệt may

Hồng Ân (thực hiện)| 24/03/2023 05:17

Yếu tố phát triển bền vững ngày càng là lựa chọn của người tiêu dùng. Theo khảo sát của McKinsey năm 2022, có đến 63% người tiêu dùng cân nhắc yếu tố phát triển bền vững của các thương hiệu khi ra quyết định mua hàng. Ngành dệt may, thời trang Việt Nam đang đứng trước những nguy cơ và thách thức, đồng thời cũng là cơ hội cho việc chuyển đổi qua các mô hình bền vững, tuần hoàn.

PGS.TS Nguyễn Hồng Quân - Viện trưởng Viện Kinh tế tuần hoàn (ĐH Quốc gia TP.HCM), đại diện nhóm nghiên cứu kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực dệt may đã có cuộc trao đổi với Tạp chí Khoa học phổ thông về những thông tin quan trọng trong chuyển đổi kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp ngành dệt may.

- Hiện nay, cụm từ “xanh hóa”, “chuyển đổi xanh” hay “kinh tế tuần hoàn” đang là mối quan tâm rất lớn, không chỉ đến từ Chính phủ, các tổ chức quốc tế, tổ chức môi trường mà còn đến từ người tiêu dùng và doanh nghiệp. Ông có thể cho biết, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam đã có những bước chuyển biến như thế nào trong thời gian gần đây?

PGS.TS Nguyễn Hồng Quân:

Hiện nay, kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh đã là một trong những chính sách quốc gia. Luật Bảo vệ Môi trường 2020 có hiệu lực áp dụng từ ngày 1/1/2022 đã quy định lồng ghép, thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Luật cũng quy định rõ tiêu chí, lộ trình và cơ chế phát triển kinh tế tuần hoàn.

Quyết định số 687/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ký ngày 7/6/2022 về việc phê duyệt đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Trước đó, ngày 24/6/2020, Thủ tướng Chính phủ cũng có quyết định số 899/QĐ-TTg nhằm phê duyệt chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021-2030.

Việt Nam đã và đang tham gia đàm phán, ký kết 17 hiệp định thương mại tự do, trong đó 3 hiệp định thế hệ mới. Các hiệp định này đã tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của nền kinh tế và lĩnh vực xuất khẩu. Trong hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, Việt Nam đã xây dựng được 750 tiêu chuẩn hướng tới thúc đẩy tăng trưởng xanh như: nhóm tiêu chuẩn về chất lượng môi trường, chất lượng không khí, chất lượng nước, quản lý chất thải; tiêu chuẩn về nông nghiệp hữu cơ ISO 11041...

Kinh tế tuần hoàn bao gồm: mô hình kinh doanh (business model), hướng tới đa mục tiêu (SDGs), huy động đa nguồn lực (doanh nghiệp, cộng đồng, nhà nước, quốc tế), áp dụng đa tỉ lệ và quy mô (doanh nghiệp, công nghiệp, tỉnh/thành, quốc gia, quốc tế) và gia tăng năng lực cạnh tranh, đã dần được triển khai cho thấy những kết quả rất tích cực và hứa hẹn, giúp nhiều doanh nghiệp vẫn tăng trưởng tốt trong thời gian suy thoái vừa qua.

PGS.TS Nguyễn Hồng Quân trao đổi về kinh tế tuần hoàn trong một triển lãm quốc tể vải cao cấp.

- Với kim ngạch xuất khẩu 44 tỷ đô trong năm 2022, ngành dệt may đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, dệt may là một những ngành gây tiêu thụ tài nguyên, ô nhiễm môi trường, có cường độ phát thải khí nhà kính cao hàng đầu. Theo ông, “xanh hóa” vì sao vẫn là một thách thức lớn?

PGS.TS Nguyễn Hồng Quân:

Những gì ngành dệt may mang lại cho nền kinh tế và gây ra suy thoái môi trường chắc chắn là điều chúng ta đều biết và nhận thức rõ. Dệt may thuộc nhóm sản phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn “xanh hóa” trong sản xuất, như thực hiện trách nhiệm xã hội, môi trường và cắt giảm khí phát thải.

Hiện có từ 75-96 tiêu chí đánh giá của Mỹ, EU, Hàn Quốc và một số nước khác đối với dệt may Việt Nam. Trong đó có thể kể đến như: An toàn sản phẩm, sử dụng hóa chất (REACH, thuốc nhuộm azo, chất chống cháy, hóa chất chống thấm và chống ố và niken); Chỉ thị an toàn sản phẩm chung của Liên minh châu Âu (GPSD: 2001/95/EC)…, bên cạnh là quy định mới của EU yêu cầu hàng dệt may có tuổi thọ cao, có thể tái sử dụng và sửa chữa được.

Việc “xanh hóa” ngành dệt may Việt Nam đang vấp phải các trở ngại không nhỏ. Thứ nhất là vấn đề nguồn cung nguyên phụ liệu cho ngành dệt may phụ thuộc rất lớn vào nguồn hàng nhập khẩu, bao gồm những loại như bông, xơ, vải… Do đó, doanh nghiệp khó kiểm soát được chất lượng và tính bền vững của chuỗi cung ứng. Hiện tại nguồn cung nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ nội địa hoá của ngành hiện mới đạt 30-35%.

Thứ hai, đối với khâu dệt nhuộm, do chưa có quy hoạch về không gian phát triển nên chưa hình thành được các khu công nghiệp dệt may lớn có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Mặt khác, các dự án dệt, nhuộm đang nỗ lực để bền vững hóa nhưng chưa nhận được sự ghi nhận từ một số địa phương, dẫn đến hiện tượng không ít địa phương tỏ ra không mặn mà trong phê duyệt, cấp phép những dự án dệt, nhuộm.

Hoạt động trong nhà máy dệt may tại khu công nghiệp tỉnh Bình Dương.

Thứ ba, ngành hàng may mặc đang có thị trường xuất khẩu là những thị trường lớn, khó tính và có yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao, tạo ra áp lực rất lớn. Áp lực này còn lớn hơn nữa khi xu thế tiêu dùng đang dần chuyển sang thời trang tuần hoàn, thời trang bền vững thay vì trào lưu thời trang nhanh như trước đây.

Thứ tư là vấn đề thiếu hụt nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ 4.0; nhân lực cho các khâu dệt, nhuộm và thiết kế thời trang.

Cuối cùng, chuyển đổi xanh, tuần hoàn đòi hỏi nhu cầu vốn đặc biệt lớn, không phải doanh nghiệp nào cũng có điều kiện đáp ứng.

- Như vậy, những động lực nào để doanh nghiệp dệt may quyết tâm cho chuyển đổi kinh tế tuần hoàn, thưa ông?

PGS.TS Nguyễn Hồng Quân:

Tác động biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng và thịnh vượng các quốc gia cũng như năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Thương mại, xuất khẩu xanh có thể giảm chi phí trong chống biến đổi khí hậu. Thị trường quốc tế rộng mở sẽ giúp các quốc gia đạt được sự điều chỉnh kinh tế cần thiết và tái phân bổ nguồn lực. Hợp tác quốc tế trong thương mại nhằm thực hiện hiệu quả các chính sách chống biến đổi khí hậu. Chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp, giảm thiểu xung đột thương mại và tính bất ổn của môi trường đầu tư… Từ đó, doanh nghiệp có chiến lược xanh hóa để xuất khẩu bền vững.

Theo báo cáo của Grand View Research Group 2022, quy mô thị trường công nghệ xanh và bền vững toàn cầu được định giá 13,28 tỷ USD vào năm 2021 và dự kiến sẽ mở rộng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 22,4% từ năm 2022 đến năm 2030. Báo cáo của của ILO 2022 cho thấy, chuyển dịch sang mô hình kinh tế xanh có thể tạo ra 24 triệu việc làm mới vào năm 2030, và khảo sát của McKinsey 2022 đưa ra con số 63% người tiêu dùng cân nhắc yếu tố phát triển bền vững của các thương hiệu khi ra quyết định mua hàng. Với WTO, mục tiêu win-win-win đặt ra cho thương mại - môi trường - phát triển được ưu tiên hàng đầu trong các cuộc đàm phán nhằm gỡ bỏ rào cản thương mại cho các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường.

Hiện nay, các giải pháp kinh tế tuần hoàn đang được chú trọng áp dụng như chuyển đổi sang năng lượng tái tạo cho lò hơi (biomas thay cho than đá, sử dụng năng lượng mặt trời); tái sử dụng chất thải (bông xơ tái chế làm bông gòn y tế; cotton tự nhiên làm sợi OE, giá thể trồng nấm, vải vụn làm giẻ lau máy, chăn, ga, thú nhồi bông); hay như đầu tư phần mềm quản lý sản xuất giúp giảm thất thoát nguyên liệu, v.v…

- Theo ông, ngành dệt may cần tập trung cho những mục tiêu chiến lược nào để dồn lực chuyển đổi kinh tế tuần hoàn hiệu quả?

PGS.TS Nguyễn Hồng Quân:

1. Về phía nhà nước, cần đẩy mạnh vùng trồng nguyên liệu nội địa và đa dạng hoá nguồn nguyên liệu cung cấp cho ngành dệt may.Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bông có thể tiếp cận nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để triển khai thực hiện. Khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, xây dựng kênh thông tin về công nghệ chung cho ngành dệt may, nghiên cứu và phát triển các nguyên liệu mới cung cấp cho ngành dệt may, phối hợp với địa phương xây dựng quy hoạch vùng trồng bông.

Giới thiệu mô hình sản xuất lụa tơ tằm trong hoạt động xúc tiến thương mại ngành dệt may gần đây.

2. Chung tay tận dụng và tối ưu hoá đầu vào trong ngành dệt may thông qua thiết kế, phát triển và sử dụng nguyên nhiên liệu, nguyên vật liệu tái tạo, tái sinh đáp ứng sản xuất.Xây dựng các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, đào tạo áp dụng các mô hình về thiết kế bền vững, thiết kế sinh thái, thiết kế để tái chế, tái sử dụng trong ngành dệt may. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh tuần hoàn, phát triển mạng lưới liên kết bền vững theo chuỗi vòng đời ngành dệt may...

3. Thúc đẩy sản xuất sạch hơn, sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường và đẩy mạnh mạng lưới liên kết bền vững các doanh nghiệp trong ngành dệt may trong cụm công nghiệp và các bên liên quan theo chuỗi giá trị. Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, hướng dẫn thực hiện kiểm toán về hiệu quả sử dụng nguyên nhiên liệu, nguyên vật liệu, năng lượng cho các cơ sở sản xuất trong ngành dệt may. Huy động nguồn lực từ các chương trình, dự án hỗ trợ quốc tế trong việc thực hiện sản xuất sạch hơn, sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường trong ngành dệt may...

4. Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại thúc đẩy triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn trong ngành dệt may. Xây dựng hệ thống, trung tâm cơ sở dữ liệu thông tin, hợp tác thông tin về thực hành, cập nhật mô hình kinh tế tuần hoàn tại các doanh nghiệp dệt may. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đảm bảo yêu cầu về xây dựng, chia sẻ, và cập nhật cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường trong ngành dệt may…

Tóm lại, các mô hình kinh tế tuần hoàn có thể cung cấp các giải pháp trong việc thực hiện đa mục tiêu, huy động đa nguồn lực hướng tới phát triển bền vững ngành dệt may Việt Nam, cần có sự phối hợp giữa các ngành, lĩnh vực (nông nghiệp, công thương, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, công nghệ số) trong quá trình chuyển đổi xanh ngành dệt may và cũng rất cần sự phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp, khoa học và các bên có liên quan (GIZ, UNEP …).

- Xin cảm ơn ông.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Giải pháp mục tiêu giúp chuyển đổi kinh tế tuần hoàn cho doanh nghiệp dệt may
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO