Đinh lăng: cây rau, vị thuốc quý

Nguyễn Hữu Thi| 27/04/2015 15:43

Cây đinh lăng có tên khoa học là Polyscias fruticosa L. Harms, thuộc họ Ngũ gia bì - Araliaceae; nhóm cây gỗ nhỏ, cao 0,8 - 1,5 mét, không lông, không gai, lá kép 3 lần lông chim, dài 20 - 40 cm. Cây được trồng phổ biến để làm gia vị, làm cây cảnh và làm thuốc. Lá có hương thơm nhẹ, vị đậm hơi đắng, bùi, tính mát. Do tính chất này nên dân gian thường dùng làm rau gia vị. Lá đinh lăng thường được ăn kèm với lá mơ, lá sung, rau thơm trong các món nem chua, tái dê, gỏi cá...

Rễ đinh lăng được thu hoạch chủ yếu vào mùa thu hay mùa đông vì lúc này các hoạt chất quý tập trung ở rễ của cây và rễ cây mềm hơn. Để có dược liệu quý, chỉ nên thu ở những cây đã trồng từ 8 - 10 năm tuổi trở lên, rễ được rửa sạch, cắt bỏ phần rễ sát với gốc thân, xắt nhỏ, phơi khô ở chỗ mát, thoáng gió để bảo đảm mùi thơm và phẩm chất. Khi dùng để nguyên sao qua, rồi tẩm 5% mật ong, sao thơm. Dược liệu có vị ngọt, đắng, mùi thơm, tính mát, không độc, được dùng dưới những dạng sau:

- Làm thuốc ngâm rượu: rễ đinh lăng khô 100 g, sao vàng (có thể tán nhỏ), ngâm với 1 lít rượu 30 - 35 độ trong 7 - 10 ngày. Ngày dùng 2 lần, mỗi lần 6 - 10 ml, uống trước bữa ăn nửa giờ.

- Làm thuốc bột và thuốc viên tẩm bổ: rễ đinh lăng đã sao tẩm 100 g, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 0,5 - 1 g hoặc trộn bột với mật ong vừa đủ, làm thành viên, mỗi viên 0,25 - 0,5 g. Ngày uống 2 - 4 viên, chia làm 2 lần. Nếu uống nước thì dùng rễ khô 0,50 g, thêm 100 ml nước đun sôi trong 15 phút, chia 2 - 3 lần uống trong ngày, uống bồi bổ sức khỏe.

- Phòng tránh bệnh kinh giật cho trẻ em: lấy cả lá non và lá già phơi khô đem lót gối hoặc trải giường cho trẻ nằm để phòng tránh bệnh kinh giật cho trẻ, vừa tạo mùi thơm rất dễ chịu cho bé và các vật dụng nơi bé nằm.

- Làm tăng tiết sữa: rễ đinh lăng 30 - 40 g, gừng tươi 3 lát, thêm 500 ml nước đun sôi trong 15 phút, chia 2 - 3 lần uống trong ngày hoặc dùng lá sao vàng, sắc cho phụ nữ uống hay nấu cháo ăn sau khi sinh để chống bệnh đau dạ con và làm tăng tiết sữa. Liều dùng: 8 - 12 g rễ khô/ngày, 200 g lá đinh lăng rửa sạch, khi canh thịt nấu sôi cho đinh lăng đun vừa chín tới, ăn nóng, giúp cơ thể sảng khoái, đẩy các độc tố ra ngoài

-  Chữa nhiệt độc, lở ngứa, mụn nhọt: dùng lá đinh lăng 40 - 60 g sắc uống.

- Chữa chín mé sưng, đau: lá đinh lăng tươi giã đắp chín mé sưng, đau.

- Chữa sưng đau cơ khớp, vết thương: 20 - 30 g thân cành sắc lấy nước uống. Có thể phối hợp chung với lá lốt, cúc tần, bưởi bung, rễ mắc cỡ, mỗi loại 10 g, sắc trong 600 ml, cô còn khoảng 300 ml, uống 2 - 3 lần trong ngày, uống vài lần là bớt đau. Hoặc bài thuốc gồm rễ đinh lăng 12 g; cối xay, hà thủ ô, huyết rồng, cỏ xước, thiên niên kiện tất cả 8 g; vỏ quýt, quế chi 4 g, cho vào 600 ml nước sắc còn 250 ml, khi sắp nhắc khỏi bếp thì hãy cho vị quế chi vào. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.

- Chữa thiếu máu: rễ đinh lăng, hà thủ ô, thục địa, hoàng tinh, mỗi vị 100 g, tam thất 20 g, tán bột, sắc uống ngày 100 g bột hỗn hợp.

- Chữa viêm gan mạn tính: rễ đinh lăng 12 g; nhân trần 20 g; ý dĩ 16 g; chi tử, hoài sơn, biển đậu, rễ cỏ tranh, xa tiền tử, ngũ gia bì, mỗi vị 12 g; uất kim, nghệ, ngưu tất, mỗi vị 8 g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Chữa sốt lâu ngày, nhức đầu, háo khát, ho, đau tức ngực, nước tiểu vàng: đinh lăng tươi (rễ, cành) 30 g, lá hoặc vỏ chanh 10 g, vỏ quýt 10 g, sài hồ (rễ, lá, cành) 20 g, lá tre tươi 20 g, cam thảo dây hoặc cam thảo đất 30 g, rau má tươi 30 g, chua me đất 20 g. Các vị cắt nhỏ, đổ ngập nước, ấn chặt, sắc đặc lấy 250 ml, chia uống 3 lần trong ngày.

- Chữa liệt dương: rễ đinh lăng, hoài sơn, ý dĩ, hoàng tinh, hà thủ ô, kỷ tử, long nhãn, cám nếp, mỗi vị 12 g; trâu cổ, cao ban long, mỗi vị 8 g; sa nhân 6 g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Chữa nổi mề đay, mẩn ngứa do dị ứng: lá đinh lăng khô 80 g, đổ 500 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Đinh lăng: cây rau, vị thuốc quý
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO