Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm bằng con giống nhân tạo

PHƯƠNG DUY| 15/06/2019 13:27

KHPTO - Theo Trung tâm khuyến nông TP.HCM, để nuôi cua biển bằng con giống nhân tạo thành công cao, ít rủi ro, người nuôi cần chú ý sau:

Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm từ giống nhân tạo trong ao đất

Chọn địa điểm nuôi gần sông, rạch, nơi có nguồn nước dồi dào và dễ cấp thoát nước nhờ vào thủy triều để giảm chi phí (xem chi tiết bài Cách chọn và làm ao nuôi cua).

Con giống: hiện nay cua giống đã được chủ động sản xuất nhân tạo, nên không còn phụ thuộc vào nguồn giống cua tự nhiên như trước. Nên chọn mua cua giống ở những trại có uy tín và đảm bảo chất lượng. Cua con có các cỡ: cua hạt tiêu (chiều rộng mai từ 0,5 - 0,7 cm); cua hạt me (chiều rộng mai từ 1 - 1,5 cm); cua mặt đồng tiền (chiều rộng mai từ 3 - 4 cm).

Nên chọn cua giống đồng đều, khỏe mạnh. Cũng có thể chọn cỡ cua theo mong muốn ngay ở nơi cung cấp cua giống, hoặc tuyển chọn trước lúc thả nuôi. Trước khi thả giống, cần kiểm tra lại điều kiện tự nhiên của ao nuôi, xem lại bờ, rào, cống. Đặc biệt, cần xem xét kỹ chất lượng nguồn nước cả về độ mặn, pH và nhiệt độ. Các chỉ số thích hợp là: độ mặn từ 15 - 25‰; pH từ 6 - 8; nhiệt độ nguồn nước từ 15 - 270C. Đảm bảo được các điều kiện trên, chúng ta mới thả giống.

Mật độ và thời gian nuôi:

bang_cua_gong

Nên tiến hành thả giống vào lúc trời mát, ở nhiều điểm khác nhau trong ao. Mỗi ao nên thả giống trong 1 - 2 ngày liên tục cho đủ số lượng, tránh thả ngắt quãng.

Quản lý ao nuôi

Cua nuôi trong ao phải cung cấp thức ăn hàng ngày, sử dụng thức ăn tôm sú với lượng thức ăn cho 10.000 cua giống hạt me: tháng thứ 1 là 2,5 kg cám, cứ 7 ngày tăng 20%. Cho ăn 2 lần/ngày vào các giờ 7 giờ và 18 giờ. Từ tháng thứ hai cho ăn tính trên tổng lượng cua trong ao.

Thức ăn được rải đều quanh ao để cua khỏi tranh nhau. Tỷ lệ cho ăn trong ngày: sáng 40%, chiều tối 60% lượng thức ăn trong ngày. Có thể dùng sàng ăn để kiểm tra sức ăn của cua. Sau 2 - 3 giờ cho ăn kiểm tra sàng ăn, nếu cua ăn hết thức ăn trong sàng thì có thể tăng lượng thức ăn, nếu thức ăn còn thì giảm lượng thức ăn.

Định kỳ thu mẫu để tính sản lượng cua có trong ao mà điều chỉnh lượng thức ăn cho vừa đủ. Hàng ngày phải cho cua ăn, không được để cua đói. Những cua lớn bị đói sẽ giết những cua nhỏ ăn thịt. Vì vậy nuôi cua phải có thức ăn dự trữ. Những ngày không có thức ăn tươi sống thì cho cua ăn thức ăn khô: cá vụn, tép phơi khô. Trước lúc rải xuống ao cho cua ăn nên ngâm cá khô vào nước 20 phút cho cá mềm ra rồi cho ăn.

Lượng thức ăn thực tế để cho ăn hàng ngày còn tùy thuộc vào điều kiện thực tế, tỷ lệ sống, điều kiện thời tiết, lượng thức ăn tự nhiên có trong ao và kinh nghiệm của nguời nuôi. Ngoài cho ăn cám viên, có thể cho cua ăn bằng cá vụn, còng, ba khía, đầu cá... lượng thức ăn hàng ngày khoảng 4 - 6% trọng lượng cua, cua thường hoạt động bắt mồi vào buổi tối.

Chăm sóc

Đảm bảo môi trường nước trong sạch rất quan trọng đối với cua, nhất là nuôi mật độ dày cho ăn thức ăn tươi sống. Ở những nơi có thủy triều lên xuống hàng ngày cần thay nước thường xuyên. Mỗi ngày thay từ 20 - 30% lượng nước trong ao. Một tuần thay toàn bộ nước trong ao một lần, kết hợp kiểm tra ao. Nước mới thay trong sạch kích thích cua hoạt động, ăn nhiều, lột xác tốt.

Thường xuyên kiểm tra tình trạng bờ, cống, rào chắn, tránh thất thoát cua. Trong thời gian nuôi, khoảng 2 tuần một lần bắt cua cân, đo để xem sinh trưởng của cua, xem xét tình trạng của cua: cua khỏe nhanh nhẹn, không bị ký sinh ngoài vỏ; xem trong xoang mang có bị ký sinh hay không. Nếu có hiện tượng bị nhiễm bệnh thì phải tìm nguyên nhân và biện pháp xử lý.

Thời gian cuối của vụ nuôi trọng lượng cua trong ao tăng lên, cho ăn thức ăn nhiều nên môi trường rất dễ bị nhiễm bẩn, do đó, việc thay nước, thường xuyên kiểm tra môi trường rất quan trọng. Trong một số trường hợp, đáy ao tích tụ nhiều thức ăn thừa, thối rữa, có thể phải tháo cạn, gạn cua và làm vệ sinh đáy ao: cào bỏ lớp bùn trên mặt và thức ăn thừa thối ra ngoài.

Phòng bệnh và địch hại

Trong nuôi thủy hải sản, cua được xem là loài ít bị bệnh tật nhất so với tôm, cá. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp cua bị bệnh và các bệnh này cũng tương tự như bệnh ở tôm biển và tôm càng xanh.

Một số bệnh do vi khuẩn và virus cũng đã được phát hiện ở cua. Các bệnh đen mang, đóng rong ở cua có các triệu

chứng như: cua bỏ ăn, rong bám trên thân, kiểm tra mang thấy có nhiều vết đen sậm. Ngoài ra, cua còn bị một số loài nguyên sinh động vật gây ra như Bamacle bám dày đặc trên mang. Trường hợp nuôi cua trong nước quá lạt cũng có thể gây ra hiện tượng cua bị bẫy lột vỏ.

Phòng bệnh: thả cua với mật độ phù hợp, quản lý môi trường tốt giúp cua phát triển nhanh, khỏe mạnh. Cho cua ăn từ đủ tới thiếu, cho ăn quá dư sẽ làm ô nhiễm môi trường ao nuôi. Làm rào chắn xung quanh ao thật kỹ, tránh các địch hại xâm nhập ăn cua lúc cua lột.

Thu hoạch

Đánh thử cua lên kiểm tra chất lượng. Cua thương phẩm phải đạt 250 g/con trở lên. Cua chắc thịt hoặc đã đầy gạch (cua cái). Khi thấy cua đã đạt tiêu chuẩn, được giá thì thu hoạch cua để bán. Cua chưa đạt kích thước, trọng lượng, cua ốp hoặc chưa đầy gạch nếu còn khỏe mạnh thì có thể đem nuôi ở các ao nhỏ, nuôi vỗ tích cực sau một thời gian đạt tiêu chuẩn thu hoạch bán sẽ được giá hơn.

13_Ky_thuat_nuoi_cua_3

13_Ky_thuat_nuoi_cua_2

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Kỹ thuật nuôi cua thương phẩm bằng con giống nhân tạo
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO