Dòng chảy

Giải bài toán đạt tăng trưởng GDP 9–10%/năm giai đoạn 2026–2030

Vân Bùi 25/12/2025 - 06:53

Việt Nam đang đứng trước cơ hội bước vào giai đoạn tăng trưởng cao với dự phóng GDP giai đoạn 2026–2030 đạt mức 9–10%/năm. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này, nền kinh tế sẽ phải đối mặt với bài toán vốn rất lớn, đồng thời buộc phải thay đổi căn bản mô hình phát triển theo hướng hiệu quả và bền vững hơn.

Đây là chia sẻ TS. Cấn Văn Lực – Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng tại Diễn đàn “Thị trường Tín dụng và những vấn đề kinh tế vĩ mô” sáng 24/12.

tin-dung.jpg

Nhu cầu vốn khổng lồ và rủi ro từ mô hình tăng trưởng dựa vào tín dụng

Theo tính toán của TS. Cấn Văn Lực, với kịch bản tăng trưởng GDP đạt 10%, trong giai đoạn 2026–2030, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần huy động tương đương khoảng 39% GDP, tương ứng quy mô khoảng 260 tỷ USD. Đây là con số rất lớn, đặt ra áp lực không nhỏ đối với hệ thống tài chính – ngân hàng cũng như các kênh dẫn vốn của nền kinh tế.

Đáng lưu ý, trong nhiều năm qua, nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc quá lớn vào vốn tín dụng ngân hàng. Thống kê cho thấy, tín dụng hiện chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, trong khi các kênh dẫn vốn khác như thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp hay các định chế tài chính phi ngân hàng vẫn phát triển chậm và quy mô còn khiêm tốn.

tin-dung-4.jpg
TS. Cấn Văn Lực – Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng.

Sự lệ thuộc này khiến mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của nền kinh tế ngày càng cao. TS. Cấn Văn Lực cho biết, ước tính đến cuối năm nay, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam sẽ đạt khoảng 147%. Nếu tín dụng tiếp tục tăng trưởng 16–17%/năm trong những năm tới, đến năm 2030, tỷ lệ này có thể vọt lên 180–185% GDP – đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có mức đòn bẩy tài chính cao nhất thế giới.

So sánh quốc tế cho thấy, tại Mỹ, tỷ lệ tín dụng/GDP vào khoảng 198%, song con số này bao gồm cả tín dụng từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Nếu chỉ tính riêng hệ thống ngân hàng thương mại, tỷ lệ tín dụng/GDP của Mỹ chỉ khoảng 80%. Điều này cho thấy, cấu trúc tài chính của Việt Nam đang mất cân đối nghiêm trọng, tiềm ẩn nhiều rủi ro hệ thống nếu tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào tín dụng ngân hàng.

tin-dung-6.jpg

Không thể tiếp tục tăng trưởng bằng “khối lượng vốn”

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh dư địa mở rộng tín dụng ngày càng hạn hẹp, bài toán đặt ra với Việt Nam không chỉ là đa dạng hóa kênh huy động vốn, mà quan trọng hơn là phải đổi mới mô hình phát triển.

“Chúng ta không thể mãi đi theo mô hình tăng trưởng dựa trên khối lượng vốn lớn như Trung Quốc hay Hàn Quốc trong giai đoạn trước. Việt Nam cần hướng tới hiệu quả của đồng vốn. Thay vì huy động bằng mọi giá, cần tập trung phân bổ và sử dụng nguồn lực một cách tối ưu nhất”, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.

Thực tế cho thấy, hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế Việt Nam còn thấp. Vòng quay tiền hiện chỉ đạt khoảng 0,6–0,7 lần, phản ánh tình trạng dòng tiền luân chuyển chậm, một lượng vốn lớn đang “đọng” trong hệ thống thay vì chảy mạnh vào sản xuất – kinh doanh. Đây là lý do lạm phát chưa bùng phát, song đồng thời cũng là dấu hiệu cho thấy hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn cần được xem xét lại một cách nghiêm túc.

Đáng chú ý, thanh khoản hệ thống ngân hàng đang có xu hướng mỏng dần khi quy mô huy động vốn hiện thấp hơn tín dụng khoảng 2 triệu tỷ đồng. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục mở rộng tín dụng bằng mọi giá sẽ làm gia tăng rủi ro mất cân đối và gây áp lực lớn lên ổn định kinh tế vĩ mô.

tin-dung-3.jpg
TS. Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh (BCSI).

Bổ sung thêm góc nhìn về điều hành vĩ mô, TS. Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh (BCSI) nhấn mạnh, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tới không chỉ dừng lại ở việc đạt tốc độ cao, mà quan trọng hơn là phải bảo đảm tính hài hòa, bền vững và bao trùm. Theo ông, trong bối cảnh dư địa chính sách không còn nhiều, chính sách tiền tệ và tín dụng cần được điều hành thận trọng, tránh chạy theo tăng trưởng bằng mọi giá.

TS. Võ Trí Thành cho rằng, điều hành tín dụng cần được phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác, đặc biệt là chính sách tài khóa, chính sách đầu tư công và phát triển thị trường vốn, nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Đây không chỉ là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng dài hạn, mà còn là nền tảng bảo đảm an toàn cho hệ thống tài chính, hạn chế rủi ro tích tụ trong trung và dài hạn.

Phát triển thị trường vốn, giảm gánh nặng cho ngân hàng

Để giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, TS. Cấn Văn Lực cho rằng Việt Nam cần nhanh chóng phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường cổ phiếu nhằm cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Cùng với đó là khai thông các kênh dẫn vốn mới như tài chính bền vững, tài chính xanh, nâng hạng thị trường chứng khoán, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế và phát triển thị trường tài sản số.

tin-dung-5.jpg
TS. Lê Xuân Sang – Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới.

Chung quan điểm thận trọng với việc mở rộng tín dụng theo chiều rộng, TS. Lê Xuân Sang – Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới – cho rằng hiệu suất tín dụng/GDP của Việt Nam đã suy giảm đáng kể trong suốt 40 năm qua. Nguyên nhân cốt lõi là hiện tượng “rò rỉ” tín dụng sang các lĩnh vực phi sản xuất, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và gia tăng rủi ro hệ thống.

Theo TS. Lê Xuân Sang, trong 5–10 năm tới, Việt Nam cần tập trung đa dạng hóa nguồn vốn thông qua thị trường chứng khoán, phát triển các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và định hướng dòng vốn vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh cao như năng lượng tái tạo, thương mại điện tử và hệ sinh thái ươm tạo công nghệ. Đây là các lĩnh vực có khả năng nâng cao năng suất dài hạn nhưng ít tạo áp lực lạm phát, qua đó giúp giảm sự lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Tín dụng xanh: Dư địa lớn nhưng vẫn còn nhiều nút thắt

Một nội dung được thảo luận sâu tại Diễn đàn là vai trò của tín dụng xanh trong cấu trúc tài chính tương lai của Việt Nam. Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam – từ năm 2015, Chính phủ và ngành Ngân hàng đã từng bước tiếp cận tăng trưởng xanh một cách có hệ thống, với hàng loạt nghị định, quyết định và chỉ thị quan trọng nhằm định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

tin-dung-2.jpg
TS. Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.

Nhờ hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện, số lượng tổ chức tín dụng tham gia lĩnh vực này đã tăng mạnh. Tuy nhiên, trong tổng dư nợ toàn hệ thống khoảng 18,2 triệu tỷ đồng, dư nợ tín dụng xanh mới đạt khoảng 750.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng rất nhỏ, dù tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 21%/năm.

Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, nguyên nhân chủ yếu nằm ở việc đầu tư xanh đòi hỏi nguồn vốn trung và dài hạn, trong khi cơ chế chính sách hỗ trợ chưa đủ ổn định và rõ ràng; khung pháp lý về ESG chưa đồng bộ; năng lực thẩm định dự án xanh của các tổ chức tín dụng còn hạn chế.

Chuyển tín dụng sang chiều sâu để bảo đảm tăng trưởng bền vững

Các chuyên gia thống nhất cho rằng, trong giai đoạn 2026–2030, tăng trưởng tín dụng không thể tiếp tục chạy theo quy mô, mà buộc phải chuyển sang chiều sâu, gắn với tái cấu trúc nguồn vốn, nâng cao hiệu quả phân bổ và kiểm soát rủi ro hệ thống.

Khi tín dụng được đặt đúng vai trò trong một cấu trúc tài chính cân bằng hơn – với thị trường vốn, đổi mới sáng tạo và tăng trưởng xanh làm trụ cột – tăng trưởng kinh tế Việt Nam mới có thể đạt được mục tiêu đề ra, đồng thời bảo đảm ổn định vĩ mô và phát triển bền vững trong dài hạn.

Vân Bùi