Khoa học

Bài 3: TP.HCM đưa sáng chế thành động lực tăng trưởng kinh tế

Võ Liên - Hoàng Quỳnh (thực hiện) 13/11/2025 - 20:12

Sau sáp nhập, TP.HCM đứng trước cơ hội hình thành một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quy mô lớn, nơi sáng chế trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của Thành phố.

a1.jpg
2.png
2.jpg
3.jpg

Tạp chí Khoa học phổ thông trân trọng giới thiệu những ý kiến tâm huyết từ 3 nhà là nhà quản lý khoa học, nhà trường và nhà doanh nghiệp xoay quanh giải pháp đưa tài sản trí tuệ, đặc biệt là các sáng chế trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của TP.HCM, qua đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết 57 về đột phá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

4.jpg

Về mặt đăng ký sở hữu trí tuệ, chúng ta thấy rõ sự năng động của đội ngũ các nhà khoa học, nhà sáng chế của Thành phố. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2024, TP.HCM đã có 154 đơn đăng ký sáng chế được nộp, tăng so với con số 133 đơn của cả năm 2023. Điều này cho thấy tiềm lực sáng tạo là rất lớn.

Tuy nhiên, "điểm nghẽn" lớn nhất của chúng ta hiện nay nằm ở khâu thương mại hóa, tức là biến các sáng chế trên giấy thành sản phẩm, dịch vụ mang lại giá trị kinh tế. Các số liệu gần đây do chính lãnh đạo Thành phố nêu tại các diễn đàn cho thấy tỷ lệ này của TP.HCM chỉ đang ở mức khoảng 5%. Đây là một con số còn khiêm tốn.

Mặc dù đã có những điểm sáng như doanh thu từ dịch vụ khoa học công nghệ của ĐHQG TP.HCM đạt hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, nhưng chặng đường để kết quả nghiên cứu thực sự lan tỏa ra thị trường vẫn còn rất dài.

5.jpg

Tuy nhiên, bức tranh sẽ hoàn toàn khác khi chúng ta nhìn về tương lai, đặc biệt là sau khi TP.HCM được định hướng phát triển cùng với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây không chỉ là sự mở rộng về địa lý, mà là một sự cộng hưởng để tạo ra một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo hoàn chỉnh.

Trong đó, TP.HCM tiếp tục là hạt nhân, tập trung nghiên cứu và phát triển (R&D) với các viện - trường, khu công nghệ cao (SHTP), nơi đã có kinh nghiệm thương mại hóa gần 20 kết quả R&D.

Còn Bình Dương, với vị thế trong TOP 10 cả nước về chỉ số đổi mới sáng tạo và các khu công nghiệp VSIP (khu công nghiệp Việt Nam - Singapore) thế hệ mới, sẽ là "thủ phủ công nghiệp", nơi ứng dụng, thử nghiệm và sản xuất hàng loạt các sáng chế.

Và Bà Rịa - Vũng Tàu, với "đầu kéo" là tổ hợp hóa dầu Long Sơn trị giá hơn 5 tỷ USD, sẽ trở thành trung tâm cho các sáng chế chuyên sâu về vật liệu mới, hóa chất và năng lượng.

Sự kết hợp này tạo ra một chuỗi giá trị liền mạch: từ ý tưởng, nghiên cứu tại TP.HCM, đến sản xuất tại Bình Dương và cung ứng nguyên liệu chuyên sâu từ Bà Rịa - Vũng Tàu.

Tóm lại, TP.HCM đang đứng trước một cơ hội lịch sử. Bằng cách giải quyết "điểm nghẽn" về thương mại hóa và tận dụng sức mạnh cộng hưởng từ khu vực kinh tế mới, tôi tin rằng Thành phố sẽ không chỉ là nơi tạo ra nhiều sáng chế, mà còn là nơi biến những sáng chế đó thành động lực tăng trưởng kinh tế thực sự.

6.jpg
7.jpg

Với TP.HCM, giải pháp hiệu quả nhất để thúc đẩy thương mại hóa sáng chế chính là nhà nước hỗ trợ/thưởng chi phí R&D (nghiên cứu và phát triển) một phần hoặc toàn phần, nhưng nên hỗ trợ cho những doanh nghiệp đã chứng minh được thành công trên thị trường. Lý do tôi cho rằng giải pháp này hiệu quả nhất là vì Thành phố có thể triển khai theo hai hướng.

Thứ nhất, hỗ trợ theo đầu vào. Doanh nghiệp có dự án R&D như chế tạo tàu ngầm, máy bay không người lái… sẽ nộp hồ sơ xin hỗ trợ. Nhà nước thành lập hội đồng thẩm định để xem xét năng lực đội ngũ, mức độ khả thi và tính mới của dự án. Tuy nhiên, cách làm này tốn nhiều thời gian, chi phí vận hành bộ máy xét duyệt, đồng thời đòi hỏi quy trình minh bạch và công tâm.

Thứ hai, hỗ trợ theo đầu ra. Doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư, tự chấp nhận rủi ro. Khi sản phẩm thương mại hóa thành công, đặc biệt là xuất khẩu được ra thị trường quốc tế, Nhà nước mới tiến hành hỗ trợ. Nghĩa là thị trường sẽ đóng vai trò "giám khảo".

Giả sử doanh nghiệp cần 10 tỉ USD để đưa sản phẩm công nghệ cao ra thị trường thế giới. Nếu bán được hàng, tạo nguồn thu ngoại tệ thì lúc này Nhà nước hoàn trả một phần chi phí R&D. Khi Việt Nam có 1.000 doanh nghiệp công nghệ cao làm được điều này, nền kinh tế sẽ hình thành lực kéo mạnh mẽ thúc đẩy R&D dựa trên thực chất, vì tiền hỗ trợ đi đúng vào doanh nghiệp làm thật.

8.jpg

Mô hình này cũng buộc doanh nghiệp phải cân nhắc đầu tư hiệu quả. Chẳng hạn, với 100 USD trong tay, nếu đầu tư vào hai dự án, mỗi dự án 50 USD, doanh nghiệp sẽ chọn những dự án có khả năng thương mại hóa cao nhất. Khi thành công, Nhà nước hoàn trả 50% chi phí, tức 25 USD, giúp doanh nghiệp yên tâm tái đầu tư vào nghiên cứu.

Cơ chế hỗ trợ theo đầu ra vì vậy tạo động lực mạnh hơn, giảm gánh nặng quản lý và kích thích doanh nghiệp chủ động đầu tư nghiêm túc vào R&D.

9.jpg

Để TP.HCM trở thành trung tâm khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo khu vực, Nhà nước cần chuyển từ mục tiêu gia tăng số lượng bằng sáng chế sang xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thực chất, với ba trụ cột chiến lược có cơ chế đo lường rõ ràng, đúng tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW.

Thứ nhất, cần ưu tiên nâng cao khả năng tiếp nhận và cải tiến công nghệ. Khoảng 50% tổng số dự án FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo, phần lớn thuộc nhóm công nghiệp lắp ráp sử dụng nguyên phụ liệu nhập khẩu, không có trung tâm R&D tại chỗ, trong khi Singapore ưu tiên các dự án R&D có cam kết tỷ lệ cao nhân sự địa phương để nhận ưu đãi thuế và tài trợ và đã thu hút 26 AI Centres of Excellence mới trong lĩnh vực R&D năm 2024.

10.jpg

Nhà nước cần đầu tư trực tiếp vào R&D doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua quỹ đồng tài trợ 50 - 70%, yêu cầu các trường đại học dành ít nhất 30% ngân sách nghiên cứu cho dự án hợp tác doanh nghiệp, mức đã giúp Singapore tạo hơn 1.150 dự án chuyển giao công nghệ mỗi năm và Hàn Quốc đạt tỷ lệ thương mại hóa sáng chế khoảng 70%.

Đồng thời, thiết lập mạng lưới chuyển giao công nghệ bắt buộc tại Khu Công nghệ cao TP.HCM, buộc mỗi dự án FDI chuyển giao ít nhất 1 quy trình lõi có giá trị thương mại cho đối tác Việt Nam trong 24 tháng, mô hình đã giúp Hàn Quốc xây dựng cụm bán dẫn K-Belt với 16 fab mới và đầu tư 471 tỷ USD đến 2047.

Thứ hai, cần chuyển sở hữu trí tuệ từ hình thức sang giá trị thương mại hóa. Thời gian xét duyệt sở hữu trí tuệ để nhận được ý kiến thẩm định lần đầu tại Việt Nam hiện nay là khoảng 24 tháng, trong khi đó quy trình này ở Singapore chỉ từ 4-8 tháng nhờ chương trình SG Patents Fast.

11.jpg

Nhà nước cần rút ngắn thời gian thẩm định và mở rộng lộ trình xét duyệt sáng chế nhanh, thành lập tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ tại TP.HCM với thẩm phán đào tạo quốc tế, kết hợp ưu đãi thuế 5-15% thu nhập từ sở hữu trí tuệ theo mô hình ưu đãi sở hữu trí tuệ (IDI) của Singapore. Chỉ khi sáng chế trở thành nguồn thu nhập bền vững, doanh nghiệp mới có động lực đầu tư dài hạn vào nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia dựa trên tri thức của Nghị quyết.

Thứ ba, cần định vị FDI như động lực đồng sáng tạo, thay vì chỉ là nguồn vốn ưu đãi. Theo EDB Singapore, nước này ưu đãi thuế cho các dự án có nhân sự R&D là công dân bản địa. Việt Nam cần tham khảo điều này và yêu cầu mỗi dự án FDI công nghệ cao với 3 điều kiện cụ thể: thành lập trung tâm R&D tại TP.HCM ưu đãi thuế cho các dự án có kỹ sư Việt Nam, đồng sáng tạo 1 sản phẩm mới có doanh thu trong 3 năm, và chuyển giao 1 công nghệ lõi cho doanh nghiệp nội địa. Đồng thời, học GIA Singapore (hỗ trợ hơn 600 tech startup và kết nối với các đối tác từ hơn 40 quốc gia) để xây dựng mạng lưới hợp tác đổi mới sáng tạo tại TP.HCM, đặt mục tiêu 100 dự án R&D ra thị trường quốc tế mỗi năm với 4 đối tác: Seoul (bán dẫn), Tokyo (robot), Munich (cơ khí 4.0), Singapore (fintech).

Chỉ khi chính sách đòi hỏi kết quả cụ thể và quốc tế hóa chiến lược, sáng chế mới trở thành động lực tăng trưởng. Doanh nghiệp TP.HCM sẽ là đối tác chiến lược không thể thay thế, và thành phố thực hiện thành công tầm nhìn Nghị quyết 57-NQ/TW.

12.jpg

Võ Liên - Hoàng Quỳnh (thực hiện)