Khoa học

Nhiều đột phá trong 5 luật mới về khoa học, công nghệ

Võ Liên 08/07/2025 - 10:56

Toàn bộ hệ sinh thái khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang được thiết lập lại, từ luật, thể chế, đến cơ chế tài chính, quản trị và triển khai với tinh thần xuyên suốt.

Chiều 7/7, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Họp báo Công bố 5 Luật do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì soạn thảo vừa được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9.

thu-truong-le-xuan-dinh-.jpeg
Ông Lê Xuân Định - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ - phát biểu tại họp báo. Ảnh: Bộ Khoa học và Công nghệ

5 luật gồm: Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Luật Công nghiệp công nghệ số; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử.

Cụ thể hóa mạnh mẽ các định hướng lớn của Nghị quyết 57

Theo ông Lê Xuân Định - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, việc Quốc hội thông qua 5 đạo luật lần này là bước cụ thể hóa mạnh mẽ các định hướng lớn của Nghị quyết 57 và các Nghị quyết của Bộ Chính trị, đặc biệt trong việc hoàn thiện thể chế, tháo gỡ điểm nghẽn, thúc đẩy các động lực phát triển mới là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Các đạo luật không chỉ tạo nền tảng pháp lý để triển khai hiệu quả các chính sách, chiến lược quốc gia về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong quản lý Nhà nước, đặc biệt khi hệ thống chính quyền 2 cấp đang bước vào giai đoạn vận hành thực tế.

Theo Thứ trưởng Lê Xuân Định, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp, các nhà khoa học và sự vào cuộc tích cực của các cơ quan báo chí trong việc lan tỏa mạnh mẽ những nội dung cốt lõi của 5 đạo luật sẽ là đóng góp thiết thực, đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Từ đó góp phần tạo sự chuyển biến thực chất, xây dựng một nền khoa học công nghệ tiên tiến, đổi mới sáng tạo toàn diện và chuyển đổi số hiệu quả.

Đáng chú ý, theo Nghị quyết 57, từ nay đến cuối năm, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục được giao chủ trì xây dựng thêm 4 dự án luật, gồm: 1 luật mới là Luật Chuyển đổi số và 3 luật sửa đổi, gồm: Luật Công nghệ cao, Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Sở hữu trí tuệ. Như vậy, chỉ trong năm 2025, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ hoàn thành việc trình 9 dự án luật - một khối lượng công việc chưa từng có tiền lệ.

Bộ Khoa học và Công nghệ kỳ vọng những luật này cùng với ba luật ban hành trước đó gồm Luật Viễn thông, Luật Tần số và Luật Giao dịch điện tử sẽ thiết lập đầy đủ, toàn diện hành lang pháp lý cho hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, theo đúng tinh thần của Nghị quyết 57 và các nghị quyết lớn của Trung ương.

Những điểm đột phá của 5 Luật mới

1. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (có hiệu lực từ ngày 1/10/2025). Lần đầu tiên đưa đổi mới sáng tạo được đưa vào luật và đặt ngang hàng với khoa học công nghệ, đã thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển. Theo đó, đổi mới sáng tạo được xác định là động lực then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Đổi mới sáng tạo được kỳ vọng đóng góp 3% vào tăng trưởng GDP, trong khi khoa học công nghệ chỉ đóng góp 1%.

Luật cũng chuyển trọng tâm quản lý từ kiểm soát đầu vào sang quản lý kết quả, đánh giá hiệu quả đầu ra, cho phép tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu sở hữu kết quả nghiên cứu để thương mại hóa, được hưởng tối thiểu 30% thu nhập từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu mang lại. Các quy định này sẽ tạo động lực đổi mới, tinh thần dám nghĩ, dám làm trong nghiên cứu, nghiên cứu hướng đến kết quả thực tiễn, gắn kết chặt chẽ giữa khoa học công nghệ với phát triển kinh tế - xã hội.

2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026) thể hiện tư duy quản lý mới, chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang quản lý chất lượng theo rủi ro; từ phương thức tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ số; từ cơ chế khuyến khích sang ràng buộc trách nhiệm, minh bạch và có chế tài xử lý nghiêm.

Lần đầu tiên, Luật yêu cầu thiết lập hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa quốc gia, kết nối dữ liệu liên ngành, hỗ trợ hậu kiểm, xử lý rủi ro chất lượng. Đồng thời, quy định quản lý rõ ràng đối với hàng hóa kinh doanh trên nền tảng số, tăng cường trách nhiệm của người bán và nền tảng trung gian trong bảo đảm chất lượng và xử lý phản ánh của người tiêu dùng.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã đổi mới toàn diện phương thức quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo 9 định hướng lớn, đó là: Chuyển đổi mô hình quản lý chất lượng theo rủi ro; quy định rõ nguyên tắc quản lý chất lượng phù hợp với từng mức độ rủi ro; quy định giảm nhẹ thủ tục hành chính đối với hàng nhập khẩu; ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn trong quản lý chuỗi cung ứng; xây dựng hạ tầng chất lượng quốc gia hiện đại; xây dựng hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa quốc gia; quản lý chất lượng hàng hóa trên nền tảng số; tăng cường chế tài xử lý vi phạm, công khai vi phạm trên nền tảng số; hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu.

3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026) đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy và phương thức quản lý lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng. Lần đầu tiên, chiến lược tiêu chuẩn quốc gia được luật hóa như một công cụ định hướng dài hạn; đồng thời thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Luật cũng quy định nguyên tắc “một sản phẩm - một quy chuẩn” trên toàn quốc, chấm dứt chồng chéo quản lý và tăng hiệu quả thực thi. Đặc biệt, cơ chế thừa nhận đơn phương kết quả đánh giá quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp công nghệ cao tiếp cận nhanh thị trường.

4. Luật Công nghiệp công nghệ số (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026) là bước ngoặt lớn trong việc thiết lập khung pháp lý cho các lĩnh vực mới như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và tài sản số. Luật quy định chiến lược phát triển chip chuyên dụng, liên kết chuỗi cung ứng toàn cầu.

Đối với AI, luật đưa ra nguyên tắc "lấy con người làm trung tâm", yêu cầu sản phẩm công nghệ số AI phải có dấu hiệu nhận dạng, Nhà nước dành chính sách ưu đãi cao nhất cho thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, triển khai, sử dụng AI. Đây cũng là lần đầu tiên tài sản số bao gồm tài sản ảo và tài sản mã hóa được bảo đảm quyền sở hữu, giao dịch và bảo mật. Hạ tầng số thiết yếu như trung tâm dữ liệu AI, khu công nghệ số tập trung và phòng thí nghiệm quốc gia được ưu tiên đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ của chuyển đổi số, kinh tế số Việt Nam.

Đặc biệt, Luật tập trung vào 3 trụ cột là phát triển nhân lực công nghiệp công nghệ số; thu hút nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao; thu hút, trọng dụng nhân tài công nghiệp số.

5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026), tạo lập khung pháp lý toàn diện, phù hợp với hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA). Luật xác định điện hạt nhân là chiến lược quốc gia, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, giảm phát thải carbon; quản lý an toàn, an ninh hạt nhân được thống nhất bởi một cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo tiêu chuẩn quốc tế.

Võ Liên