Khoa học phổ thông – “Khoa học vững trơ cầm đuốc rọi”
Hiện diện tại TP.HCM ngày nay là Tạp chí Khoa học phổ thông - một cơ quan báo chí mang đậm dấu ấn lịch sử, gắn bó lâu dài với sứ mệnh truyền bá tri thức khoa học đến đông đảo công chúng. Cái tên "Khoa học phổ thông" đã bền bỉ tồn tại, dẫu có những đoạn gập gềnh, đứt quãng, nhưng vẫn trở lại - kiên cường và đầy ý nghĩa - như một dòng chảy trí tuệ chưa từng tắt.
Khuyến khích đồng bào trên đường thực nghiệp
Ở số 1, ra ngày 1/9/1934, Khoa học phổ thông thông tin về việc xuất hiện trong “Vài lời thanh minh” như sau: “Nói tóm lại, ngoài sự khuyến khích đồng bào trên đường thực nghiệp, “Khoa học phổ thông” lại còn một trách nhiệm khó khăn hơn nữa là sẽ đem hết tài liệu về khoa học để nâng cao trình độ của các bạn thanh niên đồng chí!”.

Trong Thư tịch báo chí Việt Nam (Tô Huy Rứa chủ biên, 1999), Khoa học phổ thông được giới thiệu là tạp chí xuất bản một tháng hai số. Số đầu ra ngày 1/9/1934, số cuối là số 158, tháng 12-1942. Trên trang nhất của số 1, thể hiện báo quán ở số 248 đường Maréchal Foch, Đa Kao, Sài Gòn; sau chuyển về số 40-44 đường Paul Bert, tức đường Trần Quang Khải, Quận 1 hiện nay. Sáng lập Khoa học phổ thông, đồng thời là Chủ bút kiêm Chủ nhiệm là Kỹ sư hóa học Lâm Văn Vãng (1906 - 1988), Trương Đăng Tình giữ chân Quản lý. Đến Khoa học phổ thông số 105 (1/1/1939), Trương Đăng Tình đứng chân Chủ nhiệm còn Lâm Văn Vãng giữ vai trò Sáng lập.
Cộng tác với Khoa học phổ thông có những nhân vật mà tên tuổi của họ sau này, lại được biết đến nhiều không phải ở địa hạt báo chí, mà là sự dự phần vào lịch sử đất nước: Bác sĩ Trần Văn Đôn viết bài “Công trình khảo cứu bịnh sốt rét rừng” (số 1), “Nói về mửa” (số 20, 16/6/1935); “Con lải kim gọi là Oxyure vermiculaire” (số 28, 16/10/1935)… Bác vật Canh nông Phan Khắc Sửu có chân trong Bộ biên tập tạp chí, tác giả bài viết “Nguồn cội của sanh vật” số mùa Xuân 1935; Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh góp bài “Ấu học vệ sanh” (số 137, 1/10/1940); Bá sĩ Hồ Tá Khanh có bài “Những sự hiểu biết mới về trái cây sống” (số 147, 8/1941)… Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp viết bài và có tên trong Bộ biên tập tạp chí mảng y học như thể hiện ở phụ trương Khoa học cẩm nang số 152 (1/1942)…
Với sứ mệnh “cơ quan truyền bá khoa học” được thể hiện dưới manchette, Khoa học phổ thông hoạt động để phổ cập kiến thức khoa học cho đại chúng, mà chủ đạo gồm các lĩnh vực nông nghiệp, y học, công nghệ... cũng như giới thiệu kiến thức về các mảng thiên văn, vật lý, điển [điện] khí… còn mới mẻ với người Nam, đúng như lời bài “Khoa học! Khoa học!” trên số 7 (1-12-1934) đã nhấn mạnh: “Dầu tương lai khoa học chỉ là cái họa cho nhân loại ta cũng phải nhận rằng, nhờ khoa học loài người mới dắt tay nhau vào đường tiến bộ, cũng nhờ khoa học mà dân ta mới dần dần sống một đời thực tế, cái não thần quyền cũng phai lần, cái óc mê tín cũng nhờ đó mà giảm được chút ít”. “Vấn đề bắp ở xứ Nam Kỳ” (số 3, 1/10/1934), “Luận về xoài tháp” (số 20)…
Nhiều nghề nghiệp được tạp chí quan tâm hướng dẫn cho độc giả để có hướng đi đúng, cách làm hay, từ việc nuôi bò, nuôi vịt, cách trồng cây thuốc lá cho đến những nghề hiện đại tân tiến như chụp ảnh… Lấy số 145 (6/1941) làm dẫn chứng. Trong số này có những bài về đau ruột thừa (lời của báo là “ruột dư”), “Tế bào là gì?”, công dụng làm thực phẩm của đậu xanh, tiểu sử của nhà phát minh ra chiến xa Jules Louis Breton, cách nuôi bò, cây thông ở Đông Dương, không gian ngoài Trái Đất, nghề nhuộm giấy, kỹ thuật in ấn, vấn đề dầu mỏ, tự vựng khoa học… Có những kiến thức, phát minh sáng tạo mà có thể đến bây giờ vẫn có thể xem là mới đã xuất hiện trên Khoa học phổ thông. Số 13 (1/3/1935) có bài viết về phát minh máy đánh vảy cá của Lê Ngọc Tôn là một ví dụ.
Trên Khoa học phổ thông, có lúc dành riêng trang “Nhi đồng” với tính chất nhẹ nhàng để giúp trẻ em tiếp cận kiến thức khoa học sát thực với đời sống. Số 24 (16/8/1935) viết về mưa; số 26 (16-9-1935) có bài “Gió giong. Bão tố. Gió mùa” giải thích về gió, bão. Giải thích về mưa ở số 24 được đơn giản hóa theo hình thức hội thoại vấn đáp giữa hai anh em như sau: “BA. - Anh Hai, Thầy em cho bài luận đề là “mưa”. Em không hiểu nói làm sao. Nhờ anh giải cho. Có phải ông trời đổ mồ hôi gọi là mưa chăng? HAI. - Không. Mưa là hơi nước trên không trung đặc lại, rồi rơi xuống từ [từng] hột, hoặc nhỏ hoặc lớn tùy theo lúc. Hơi ướt ấy chính là hằng hà sa số hột nước nhỏ nhen như bụi và rất nhẹ. Nó hiệp lại thành đám mây đen, tục gọi là mây “khói đèn”. Phần lịch sử, văn học cũng xuất hiện thường ở phần sau của tạp chí. Đó là tiểu thuyết “Đi bòn vàng” đăng từ số 1; tiểu thuyết “Ba người du lịch trên Mặt trăng” khởi đăng từ số 87 (1/4/1938)...

Không chỉ là thành viên trong Bộ biên tập tạp chí ở mảng y học, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp (người đề xuất đặt tên Thành phố Hồ Chí Minh cho Sài Gòn từ năm 1946) đã viết nhiều bài trên Khoa học phổ thông lấy kiến thức y học làm nền để liên hệ tới nhiều vấn đề khác về văn chương, thần học…: Bài “Dưới đèn khoa học thử đọc vài trương Tam Quốc chí” (số 50, 16/9/1936); “Sức khỏe dưới bóng thái dương” (số 54, 16/11/1934); “Y lý thần học và siêu hình” (số 70, 71)… Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch góp bài “Bệnh ho lao” (số 33, 1/1/1936)…
Bên cạnh những số thường, Khoa học phổ thông có những số đặc biệt mang tính chuyên đề. Có thể điểm qua vài số như vậy: Số 56 (16/12/1936) số đặc biệt về chớp bóng; số 58 (16/1/1937) về bệnh lao; số 66, 67 (1/6/1937) về phụ nữ; số 87 (1/4/1938) về vô tuyến điện. Báo cũng ra số Xuân khi có Số mùa xuân 1935, số Tết 1937, số Xuân Mậu Dần 1938… Trong số mùa xuân 1935, cùng bài chúc Tết “Khoa học với mùa xuân” là tứ thơ của bổn báo: “Xuân về, hạ lại, nhắn thu sang,/ Thấm thoát đông qua mấy độ tàn./ Khoa học vững trơ cầm đuốc rọi,/ Khúc đường mờ tỏ chốn trần gian”. Năm 1942 Khoa học phổ thông đình bản ở số 158. Lý do phải dừng tờ tạp chí, sau này được ông Chủ nhiệm Lâm Văn Vãng kể lại trong Khoa học phổ thông tục bản số 25 (1/7/1951) rằng “vì thời cuộc biến chuyển, vì gặp nhiều điều khó khăn trong thời kỳ quân đội Phù Tang chiếm đóng, tờ báo phải tạm ngưng, sau tám năm làm việc”.
Đường dẫu gập ghềnh vẫn kiên trì một lối
Là người say nghề báo, đến năm 1950, Kỹ sư Lâm Văn Vãng đã tục bản tờ này đánh lại số 1, ngày 1/7/1950 với tên gọi cũ và giao diện gần như trước đây. Tôn chỉ của tạp chí, được giãi bày trong bài “Cùng bạn đọc” ngay ở đoạn đầu: “Tên của “tạp chí” nầy tức là mục đích của nó. Tưởng chúng tôi khỏi cần phải giải thích dài giòng [dòng]. Với bộ biên tập mới, chúng tôi sẵn sàng tiếp tục theo chương trình đã vạch sẵn từ năm 1934 đến 1942”. Ông đứng vai Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, Thư ký là Kỹ sư Hồ Công Mên. Theo Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam (Nguyễn Thành, 2001), báo sống đến năm 1957, tuy nhiên tài liệu này lại ghi sai tên ông Vãng thành Vang. Điểm qua hơn 60 số báo không đầy đủ thời gian này mà chúng tô sưu tầm được, cho thấy tòa soạn báo ở số 34A đường Lăng Ông, Gia Định.

Nội dung của Khoa học phổ thông thời gian này vẫn quanh việc truyền bá kiến thức khoa học cho đại chúng tập trung vào nông nghiệp, y học, kỹ nghệ, thiên văn… Chú trọng nhiều vào các kiến thức thường thức trong đời sống mà ai cũng có thể gặp, áp dụng. Đó có thể là “Về cách ướp trà”, “Nạp bình ac-quy xe hơi hoặc radio” (số 28, 16-8-1951); “Cách làm nấm” (số 80, 16/11/1953)… Báo quan tâm tới việc dạy, hướng dẫn các ngành nghề như “Nghề làm nước mắm” (số 36, 16/12/1951), “Nghề làm bơ” (số 75, 1/9/1953)... Dẫu vậy, Khoa học phổ thông có những bài mở rộng phạm vi hơn nhiều khi bàn đến những vấn đề mang tính thời sự được xã hội quan tâm. Tỉ như “Trở lại vấn đề Việt ngữ” (số 27, 1/8/1951); “Những lý do khiến người Việt khó lòng khuếch trương công nghệ” (số 50, 1/8/1952); “Kiến thiết nước Việt Nam tương lai” (số 80)…

Ở phiên bản mới, có những tên tuổi khoa học cộng tác với báo như bác sĩ Nguyễn Khắc Viện bàn về bệnh lao ở số 28, vấn đề vệ sinh ở số 36. Luật sư Trịnh Đình Thảo có mặt trong bộ biên tập tạp chí ngay ở số đầu tục bản. Báo còn mở thêm mục “Vấn đáp” mỗi số để giải đáp hàng chục thắc mắc, câu hỏi của độc giả về những vấn đề thường thức hoặc khoa học trong đời sống. Tỉ như số 58 (1/12/1952) độc giả hỏi “Đồng hồ đeo tay lúc vặn máy radio có hề chi không?”, “Xin chỉ thuốc nhuộm tóc cho đen, vì tóc tôi mới 30 đã bạc trắng”… Với câu hỏi “Xin chỉ thuốc trị ghiền rượu” ở số này, báo trả lời “Không có thuốc chi chắc chắn, hơn mình có can đãm [đảm] dảm [giảm] lần”. Tuy nhiên, báo cũng hướng dẫn thêm việc dùng thuốc chế theo phương thức khoa học để góp phần trị nghiện rượu.
Hiện diện tại TP.HCM hôm nay là Tạp chí Khoa học phổ thông – một cơ quan báo chí mang đậm dấu ấn lịch sử và chiều sâu ý nghĩa, gắn bó lâu dài với công cuộc truyền bá tri thức khoa học đến đông đảo công chúng. Dẫu có những giai đoạn thăng trầm, đứt đoạn do hoàn cảnh lịch sử, cái tên “Khoa học phổ thông” vẫn kiên trì trở lại, tiếp nối sứ mệnh khai mở tri thức và phụng sự cộng đồng.
Tờ Khoa học phổ thông hiện nay chính thức ra đời vào ngày 15/1/1976 dưới dạng tập san, kế thừa tinh thần của tờ Khoa học phổ thông từng xuất bản ở Sài Gòn trước năm 1957 nhưng bị gián đoạn. Khi đó, kỹ sư Lâm Văn Vãng – người từng là Chủ nhiệm của Khoa học phổ thông trước năm 1957 – tiếp tục đảm nhiệm vai trò Chủ nhiệm trong bộ mới, như một sự trở lại đầy tâm huyết và trách nhiệm.
Ngày 27/11/1980, theo quyết định của Ủy ban nhân dân TP.HCM, tập san Khoa học phổ thông được nâng cấp và chuyển đổi thành báo in định kỳ, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hành trình phát triển, mở rộng phạm vi truyền thông khoa học phục vụ công chúng thành phố và cả nước.
Đến tháng 8/2022, trong xu thế tinh gọn bộ máy báo chí và tăng cường hiệu quả truyền thông, báo Khoa học phổ thông được tổ chức lại, sáp nhập với Tạp chí Thời sự Y học (trực thuộc Hội Y học TP.HCM), chính thức mang tên gọi mới: Tạp chí Khoa học phổ thông, trực thuộc Ủy ban nhân dân TP.HCM.
Suốt gần một thế kỷ, cái tên “Khoa học phổ thông” đã hiện diện trong làng báo Sài Gòn – TP.HCM như một biểu tượng đặc biệt: lặng lẽ, bền bỉ, nhưng đầy ý nghĩa. Trải qua bao biến động của thời cuộc, khi thời thế cho phép, Khoa học phổ thông lại tiếp tục trở lại – như một lời nhắn nhủ rằng: tri thức không bao giờ mất đi, chỉ chờ thời điểm để hồi sinh và lan tỏa.
“Quý thay” – bởi đó không chỉ là tên gọi của một tờ báo, mà là biểu hiện của một dòng mạch trí tuệ bền bỉ, một tinh thần trách nhiệm với cộng đồng, với sự phát triển của xã hội qua từng chặng đường lịch sử.