Y học

Hành trình phát triển kỹ thuật nuôi trưởng thành noãn ở Việt Nam

BS. Hồ Mạnh Tường 27/02/2025 06:45

Từ những ngày đầu còn hạn chế kiến thức và chưa có kinh nghiệm trong điều trị hiếm muộn, đến nay, các bác sĩ Ngành Hỗ trợ sinh sản Việt Nam đã dần khẳng định và ghi tên mình trên nhiều hội thảo y khoa quốc tế.

Kỹ thuật trưởng thành noãn (IVM) là gì ?

Trong phác đồ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) hiện nay, người ta thường dùng hormone để kích thích 2 buồng trứng có nhiều nang phát triển, sau đó chọc hút lấy trứng (noãn) trưởng thành và thụ tinh trong ống nghiệm để tạo phôi. Điều này giúp mỗi lần làm TTTON, bệnh nhân có thể có được nhiều phôi, tăng tỷ lệ thành công do có thể chuyển phôi được nhiều lần.

Tuy nhiên, kích thích buồng trứng (KTBT) bằng hormone cũng làm phát sinh nhiều vấn đề:

- Mất thêm thời gian khoảng 2 tuần để tiêm thuốc và theo dõi KTBT. Bệnh nhân ở xa gặp rất nhiều bất lợi

- Chi phí tiêm hormone KTBT trong 2 tuần chiếm khoảng 1/2 chi phí làm TTTON

- Các tác dụng phụ, biến chứng có thể xảy ra do KTBT. Một số biến chứng của KTBT như hội chứng quá kích buồng trứng, tắc mạch có thể xảy ra, nếu nặng có thể dẫn đến tử vong.

z6315702876969_c5463dfe9b79b56d209fbf293b6c4a3d.jpg

Do đó, từ lâu các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu tìm ra nhiều phác đồ điều trị thay thế việc KTBT trong TTTON. Năm 1991, các nhà khoa học Hàn Quốc là những người đầu tiên báo cáo trường hợp thành công, có thai đầu tiên khi lấy trứng từ buồng trứng không cần KTBT, nuôi trưởng thành trứng (IVM), thụ tinh với tinh trùng để tạo phôi và cấy vào buồng tử cung. Từ đó đến nay, nhiều phác đồ IVM đã được nghiên cứu, áp dụng và liên tục cải tiến để tăng hiệu quả.

Nguyên tắc của kỹ thuật IVM là chọc hút trứng từ những nang nhỏ có sẵn trên buồng trứng, không cần tiêm hormone KTBT hoặc chỉ tiêm một lượng ít hormone trong thời gian ngắn. Trứng lấy được sẽ được nuôi trưởng thành trong phòng nuôi cấy, sau đó thụ tinh với tinh trùng để tạo phôi và cấy phôi vào buồng tử cung người phụ nữ.

Lợi ích của kỹ thuật IVM so với tiêm hormone nhiều ngày để kích thích buồng trứng trong TTTON là:

- An toàn hơn nhiều do loại trừ các tác dụng phụ, biến chứng nguy hiểm của KTBT

- Rút ngắn đáng kể thời gian điều trị cho bệnh nhân, từ hơn 2 tuần, chỉ còn vài ngày.

- Giảm chi phí điều trị bao gồm: thuốc KTBT, siêu âm và thử máu theo dõi KTBT, chi phí đi lại và ảnh hưởng đến công việc

Bắt đầu áp dụng IVM ở Việt Nam

Khi TTTON ở Việt Nam bắt đầu hoạt động, chúng tôi nhận thấy quá trình KTBT gây rất nhiều bất lợi cho bệnh nhân. Mặc dù chúng tôi đã cố gắng giảm thiểu chi phí làm TTTON xuống rất thấp, nó vẫn quá mắc đối với hầu hết bệnh nhân Việt Nam, trong đó, chi phí cho thuốc hormone KTBT đã chiếm khoảng 60% tổng chi phí điều trị do đây là những thuốc đặc trị, phải nhập khẩu hoàn toàn và qua nhiều khâu trung gian. Ngoài ra, bệnh nhân còn phải tốn nhiều chi phí và thời gian để đi lại tiêm thuốc, siêu âm, thử máu… Áp lực và gánh nặng cho bệnh nhân là rất lớn, đặc biệt là bệnh nhân ở xa. Bên cạnh đó, tỷ lệ tác dụng phụ và biến chứng của các phác đồ KTBT lúc đó rất cao, có nhiều trường hợp phải theo dõi điều trị nhiều tuần, tốn kém và nguy hiểm, thậm chí đã có ca tử vong do hội chứng quá kích buồng trứng nặng khi làm TTTON. Do đó, khi đọc và tìm hiểu về kỹ thuật IVM, chúng tôi quyết định, cần phải đi học và triển khai kỹ thuật IVM ở Việt Nam.

z6315702876970_b3e295e325dcde83c6676a9e3fd6bfb2.jpg

Vào năm 2006, lúc đó tôi đang là Trưởng Khoa Hiếm muộn Bệnh viện Từ Dũ, tôi đã đề xuất và xin phép Ban Giám đốc bệnh viện cử người đi học và triển khai kỹ thuật IVM ở Việt Nam. Sau đó, bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan, phụ trách chính về lâm sàng và bác sĩ Đặng Quang Vinh, phụ trách chính labo phôi học đã được cử sang Hàn Quốc và Nhật để học tập kỹ thuật mới. Sau khi học về, chúng tôi đã chuẩn bị các điều kiện để có thể triển khai kỹ thuật này lần đầu tiên ở Việt Nam. Rất may mắn là chúng tôi đã thành công ngay từ những trường hợp đầu tiên. Trường hợp sinh đôi từ kỹ thuật IVM đã ra đời vào năm 2007, mở ra một bước phát triển mới cho TTTON ở Việt Nam.

Các kết quả từ kỹ thuật IVM ở Việt Nam bước đầu rất khả quan. Hai năm liên tiếp 2007, 2008 tôi được mời đi báo cáo về kết quả IVM ở Việt Nam tại các hội nghị lớn ở châu Âu. Tuy nhiên, do các biến động tại Khoa Hiếm muộn Bệnh viện Từ Dũ trong hai năm 2007-2008, việc tiếp tục phát triển kỹ thuật IVM bị tạm lắng xuống. Từ 2008 trở đi, chúng tôi bắt đầu triển khai trở lại và tiếp tục cải tiến các qui trình IVM ở Việt Nam ở các trung tâm TTTON tại Bệnh viện Vạn Hạnh, Bệnh viện An Sinh. Lúc này, cũng có một số trung tâm TTTON khác ở Việt Nam bắt đầu triển khai IVM, nhưng kết quả không khả quan.

Phát triển kỹ thuật IVM và được công nhận của khu vực và thế giới

Từ năm 2009 đến 2013, phác đồ IVM của chúng tôi đã đi vào ổn định và liên tục cải thiện. Nhiều đồng nghiệp các nước đến tham quan học tập về kỹ thuật, chủ yếu là các nước trong khu vực. Chúng tôi cũng được mời đi báo cáo ở các nước trong khu vực về kinh nghiệm thực hiện kỹ thuật IVM ở Việt Nam. Năm 2012, chúng tôi chính thức báo cáo kết quả thực hiện IVM của Việt Nam tại hội nghị ASPIRE do Hội sinh sản châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại Nhật. Kỹ thuật IVM của Việt Nam bắt đầu có tiếng vang trong khu vực. Các hội nghị ASPIRE những năm sau đó, năm nào chúng tôi cũng được mời báo cáo về IVM. Uy tín của kỹ thuật IVM ngày càng lan xa trong khu vực và ra thế giới.

Đến năm 2014, chúng tôi chính thức xây dựng một trung tâm IVF đạt tiêu chuẩn quốc tế tại Bệnh viện Mỹ Đức, đồng thời qui trình kỹ thuật IVM cũng được cải tiến đáng kể. Tỷ lệ thành công của CAPA-IVM tương đương với TTTON có KTBT, nhưng an toàn hơn nhiều, qui trình điều trị được rút gọn chỉ còn vài ngày, tổng chi phí điều trị giảm khoảng 50%. Số trường hợp có thai và sinh bé từ kỹ thuật IVM ngày càng tăng. Ngày càng nhiều đồng nghiệp trong và ngoài nước đến tham quan học tập. Bệnh viện Mỹ Đức lúc này được xem là một trong những trung tâm hàng đầu thế giới về IVM.

Đột phá về kỹ thuật IVM: CAPA-IVM

Trong những năm đầu sau 2000, nhiều kiến thức chuyên sâu về quá trình phát triển và trưởng thành của trứng trên động vật đã được phát hiện và những nghiên cứu cơ bản tìm hiểu trưởng thành của trứng người đã được các nhóm nghiên cứu trên thế giới triển khai ở Mỹ, Bỉ, Nhật, Hàn Quốc… Sau đó, các ứng dụng của IVM trên động vật được áp dụng đại trà trong ngành chăn nuôi. Những năm sau 2010 trở đi, các nghiên cứu cơ bản áp dụng kiến thức mới của IVM và kinh nghiệm trên động vật để tìm các cải thiện hiệu quả kỹ thuật IVM ở người đã được triển khai. Một số báo cáo bước đầu khả quan được báo cáo từ Mỹ, Bỉ, Úc…

z6315702853188_2da66d5ab01e7d6463587839f264fad2.jpg

Đến năm 2015, nhóm nghiên cứu ở Đại học VUB của Bỉ, đứng đầu là giáo sư Johan Smitz đã nghiên cứu thành công phác đồ cải tiến qui trình IVM trên trứng người, gọi là CAPA-IVM, với 2 bước nuôi cấy trứng so với phác đồ cũ chỉ có một bước nuôi cấy. Báo cáo về cải thiện kết quả tạo phôi với CAPA-IVM, số liệu theo dõi đầy đủ, được công bố chính thức sau đó trên tạp chí nổi tiếng của ngành Human Reproduction. Kết quả bước đầu ở Bỉ rất khả quan và một nhóm nghiên cứu đa quốc gia nhằm cải tiến kết quả IVM trên người đã được thành lập. Nhóm nghiên cứu đa quốc gia này bao gồm các chuyên gia hàng đầu về ứng dụng IVM trong hỗ trợ sinh sản người từ các trung tâm nghiên cứu mạnh trên thế giới. Với tư cách là một trong những trung tâm hàng đầu về kỹ thuật IVM, Bệnh viện Mỹ Đức được mời tham gia nhóm này.

Năm 2016, hai thành viên chủ chốt của nhóm nghiên cứu cải tiến IVM là GS. Johan Smitz (ĐH VUB, Bỉ) và GS. Robert Gilchrist (ĐH UNSW, Úc) đã sắp xếp đến Việt Nam, thăm Bệnh viện Mỹ Đức và tổ chức một cuộc họp quan trọng thảo luận về các phác đồ IVM và lên kế hoạch triển khai phác đồ CAPA-IVM mới tại Bệnh viện Mỹ Đức. Với kinh nghiệm lâu năm và tỷ lệ thành công cao với kỹ thuật IVM, Bệnh viện Mỹ Đức là một những nơi tiềm năng ứng dụng thành công phác đồ CAPA-IVM mới vào điều trị. Đây là cuộc họp mang tính lịch sử, có thể làm thay đổi thực hành của ngành TTTON thế giới trong tương lai.

Năm 2016, chúng tôi bắt đầu áp dụng phác đồ CAPA-IVM, kết hợp các nghiên cứu cơ bản mới về trưởng thành trứng người của các chuyên gia ĐH VUB Bỉ và phác đồ lâm sàng, kinh nghiệm về IVM của Bệnh viện Mỹ Đức Việt Nam. Kết quả bước đầu khá khả quan, tỷ lệ trứng trưởng thành, số lượng phôi, chất lượng phôi đều tăng. Chúng tôi thành công ngay những trường hợp đầu tiên với phác đồ CAPA-IVM và em bé đầu tiên ra đời vào năm 2017. Sau đó, chúng tôi tiếp tục làm việc với nhóm nghiên cứu IVM quốc tế để cải tiến các bước trong qui trình mới. Tỷ lệ có thai tiếp tục cải thiện, cao hơn hẳn so với phác đồ IVM cũ. Năm 2017, chúng tôi được mời tham gia và trình bày kinh nghiệm tại một hội nghị quan trọng ở châu Âu về các tiến bộ mới của kỹ thuật IVM.

Thành công với kỹ thuật CAPA-IVM của Việt Nam bắt đầu được biết đến trong giới chuyên môn trên thế giới. Năm 2018, Ban Chấp hành Hội sinh sản châu Á – Thái Bình Dương (ASPIRE) đề nghị phối hợp với Bệnh viện Mỹ Đức tổ chức một hội nghị 2 ngày về các tiến bộ về kỹ thuật IVM tại TPHCM. Hội nghị thu hút được sự tham gia của hơn 100 chuyên gia khắp nơi trên thế giới: Mỹ, Peru, nhiều nước ở châu Âu, châu Á và Úc… Vị trí của Bệnh viện Mỹ Đức như một trung tâm tiên phong của kỹ thuật CAPA-IVM trên thế giới được chính thức công nhận.

Dẫn đầu xu hướng mới trong hỗ trợ sinh sản: TTTON không KTBT

Phác đồ CAPA-IVM tiếp tục được chúng tôi cải tiến, chúng tôi công bố công trình nghiên cứu chứng minh phác đồ CAPA-IVM cho kết quả gần tương đương với TTTON với 2 tuần KTBT. Kết quả nghiên cứu này đã tạo một ấn tượng mạnh với cộng đồng chuyên môn trên thế giới. Năm 2019, chúng tôi được mời báo cáo ở Hội nghị thường niên của Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ (ASRM); năm 2020 chúng tôi được mời báo cáo về CAPA-IVM trong phiên Keynote ở hội trường chính tại hội nghị thường niên ASPIRE; năm 2021, chúng tôi công bố kết quả cập nhật của phác đồ CAPA-IVM mới của Việt Nam cho thấy kết quả đã gần tương đương với TTTON có KTBT và hàng trăm em bé ra đời được theo dõi khoẻ mạnh đến 2 tuổi hoặc hơn. Đồng thời, số mũi tiêm hormone liều thấp trước CAPA-IVM được giảm từ 3 ngày xuống còn 2 ngày.

z6315702864025_5d1ccbb4c58b3869ca710724c69e4ab4.jpg
PGS.TS.BS Vương Ngọc Lan hướng dẫn đoàn chuyên gia Đại học Valencia, Tây Ban Nha, kỹ thuật chọc hút trứng CAPA-IVM

Kết quả của CAPA-IVM được cải thiện liên tục nhờ các cải tiến trong qui trình tại Bệnh viện Mỹ Đức. Năm 2022, chúng tôi bắt đầu nghiên cứu áp dụng phác đồ CAPA-IVM hoàn toàn không cần tiêm hormone trước. Số ngày tiêm thuốc từ 2 ngày xuống hoàn toàn không tiêm thuốc và kết quả có khuynh hướng tốt hơn, đa số các trường hợp được nuôi phôi đến 5 ngày và chỉ cần cấy 1 phôi vào tử cung đã cho kết quả rất tốt. Đây được xem là một cột mốc mang tính cách mạng của ngành hỗ trợ sinh sản, nó chứng minh có thể làm TTTON hoàn toàn không cần tiêm hormone KTBT mà vẫn có được nhiều phôi tốt và kết quả có thai cao. Đầu năm 2025, công trình này đã được chính thức công bố trên tạp chí chuyên ngành hàng đầu thế giới Fertility & Sterility của Hội Y học sinh sản Hoa Kỳ, tạo được tiếng vang lớn. Nhiều chuyên gia trên thế giới cho rằng đây là cột mốc quan trọng, sẽ làm thay đổi thực hành lâm sàng của ngành hỗ trợ sinh sản thế giới trong 5-10 năm tới.

Những năm gần đây, nhiều hội nghị khoa học các nước trong khu vực và thế giới tiếp tục mời các chuyên gia Bệnh viện Mỹ Đức báo cáo về kỹ thuật CAPA-IVM. Hàng trăm chuyên gia từ các trường đại học, trung tâm TTTON lớn trên thế giới đã đến tham quan và học tập kỹ thuật CAPA-IVM của Bệnh viện Mỹ Đức: Mỹ, Canada, Pháp, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Bỉ, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Malasia, Thái Lan, Indonesia, Úc… Tên tuổi của Bệnh viện Mỹ Đức gắn liền với kỹ thuật CAPA-IVM. Trong những năm 2020-2024 chúng tôi đã công bố gần 20 công trình và bài viết trên các tạp chí chuyên ngành uy ín về phác đồ CAPA-IVM ở Việt Nam. Chúng tôi được Ban biên tập quyển sách giáo khoa nổi tiếng nhất thế giới về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mời chấp bút chương sách về kỹ thuật IVM. Đầu năm 2024, quyển sách giáo khoa hơn 20 tuổi, phiên bản thứ 6 đã được phát hành rộng rãi khắp thế giới, trong đó chương về IVM do 2 tác giả Việt Nam biên soạn. Một cột mốc tự hào của ngành Hỗ trợ sinh sản Việt Nam.

z6315702863296_2cc33c986afb2f4d93e13b76705cd851.jpg
TTTON Việt Nam ngày càng được nhiều bác sĩ ở các quốc gia khác quan tâm

Tự hào ngành Hỗ trợ sinh sản Việt Nam

Việt Nam bắt đầu thực hiện TTTON từ năm 1997, các em bé đầu tiên ra đời năm 1998, đi sau thế giới 20 năm. Chúng ta bắt đầu phát triển TTTON trong bối cảnh nước ta còn nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, ngành y tế còn nhiều lạc hậu… Hiện nay Việt Nam đi đầu khu vực Đông Nam Á về kỹ thuật TTTON cả về qui mô, về trình độ chuyên môn và các kỹ thuật, phác đồ mới. Trung tâm TTTON của Bệnh viện Mỹ Đức được cả thế giới biết đến qua các công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí y khoa hàng đầu thế giới như New England Journal of Medicine, The Lancet, và là nơi đi đầu trong một cuộc cách mạng về kỹ thuật của ngành hỗ trợ sinh sản thế giới: phác đồ TTTON hoàn toàn không tiêm thuốc kích thích buồng trứng với tỷ lệ thành công vượt trội.

BS. Hồ Mạnh Tường