Y học

Tỷ lệ tử vong khi mắc bạch hầu có thể lên đến 30 - 40%

An Hương 09/07/2024 - 14:45

Tỷ lệ tử vong 30 - 40% đối với trường hợp mắc bạch hầu nặng, bệnh nhân bị tắc nghẽn hô hấp hoặc có biến chứng không điều trị kịp thời. Con số này có thể tăng 50% trong mùa dịch.

Bạch hầu: Bệnh nhiễm trùng cấp tính kết hợp nhiễm độc tố

Bạch hầu là bệnh nhiễm trùng cấp tính kết hợp nhiễm độc tố do vi khuẩn bạch hầu (Corynebacterium diphtheriae) gây ra. Bệnh này biểu hiện bệnh chủ yếu ở đường hô hấp hoặc ngoài da, hiếm khi gây hoại tử da, nhiễm trùng huyết, viêm nội tâm mạc, viêm tủy xương hay viêm khớp.

Chiều 8/8, Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế đã có văn bản gửi Sở Y tế Nghệ An và Sở Y tế Bắc Giang về việc chủ động tăng cường công tác phòng, chống bệnh bạch hầu.

Văn bản do TS Hoàng Minh Đức - Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng (Bộ Y tế) ký ban hành cho biết, theo thông tin từ hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm, trên địa bàn tỉnh Nghệ An (huyện Kỳ Sơn) đã ghi nhận trường hợp bệnh nhân 18 tuổi tử vong do bệnh bạch hầu và trường hợp mắc bệnh tại tỉnh Bắc Giang (huyện Hiệp Hòa) có tiếp xúc gần với trường hợp tử vong nêu trên.

Theo số liệu của Cục Y tế Dự phòng, 6 tháng đầu năm 2024, cả nước ghi nhận 5 trường hợp mắc, trong đó 1 trường hợp tử vong.

Cụ thể, tỉnh Hà Giang ghi nhận 3 trường hợp mắc bệnh bạch hầu trong các tháng 1, 2 và 4/2024, tại các ổ dịch cũ (tại các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh).

Tỉnh Nghệ An ghi nhận 1 trường hợp mắc và tử vong do bệnh bạch hầu (tháng 6/2024) tại huyện Kỳ Sơn.

Tỉnh Bắc Giang ghi nhận 1 trường hợp mắc bệnh (tháng 7/2024) tại huyện Hiệp Hòa, tiếp xúc gần với trường hợp tử vong của tỉnh Nghệ An.

Theo ThS.BS chuyên khoa Truyền nhiễm Trần Đăng Khoa, Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM, khi vào cơ thể, vi khuẩn bạch hầu tạo ra sang thương chính là lớp giả mạc màu trắng xám hoặc trắng ngà ở đường hô hấp trên, đây là lý do tại sao có tên là “bạch hầu”.

Lớp giả mạc bạch hầu có tính chất khác với giả mạc các bệnh khác ở chỗ rất dai, không tan trong nước dính chặt vào lớp thượng bì bên dưới nên khó tróc và dễ chảy máu khi dùng cây đè lưỡi cạo hay nạy.

lay-mau-giam-sat-bach-hau.jpg
Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật tỉnh Nghệ An đang tiến hành lấy mẫu giám sát bệnh bạch hầu tại địa phương. Nguồn internet

Vị trí giả mạc thường ở mũi, họng, amidan, thanh quản... sau đó có thể lan rộng nếu không được điều trị. Một số dòng vi khuẩn bạch hầu có thể tạo ra độc tố, làm bệnh diễn tiến nặng hơn với các biến chứng như viêm cơ tim, viêm đa dây thần kinh…. Dòng vi khuẩn bạch hầu gây bệnh ở da thường không tiết độc tố.

“Tỷ lệ tử vong lên đến 30 - 40% đối với trường hợp nặng, giả mạc lan rộng gây tắc nghẽn hô hấp hoặc có biến chứng mà không điều trị kịp thời, có thể tăng đến 50% trong mùa dịch. Nếu bệnh nhân được dùng kháng độc tố bạch hầu (SAD), tỷ lệ tử vong có thể giảm xuống còn khoảng 5 - 10%, nhưng hiện nay nguồn cung cấp còn rất hạn chế,” ThS.BS Trần Đăng Khoa cho biết.

Con đường lây nhiễm của bệnh bạch hầu

Người là nguồn dự trữ chính của vi khuẩn bạch hầu, khi ra khỏi cơ thể, vi khuẩn bạch hầu có thể sống khoảng 2-3 tuần trên bề mặt khô của các vật dụng như giường bệnh, bàn ghế, đồ chơi, sách, viết, tay nắm cửa… đôi khi có thể tồn tại trong nước, sữa.

ThS.BS Khoa giải thích: “Bệnh bạch hầu biểu hiện ở hô hấp và da nên đường lây nhiễm chính là đường hô hấp và tiếp xúc. Khi bệnh nhân hoặc người mang vi khuẩn ho, sổ mũi sẽ văng các hạt nước bọt li ti chứa vi khuẩn ra ngoài và lây vào đường hô hấp của người chưa bệnh, hoặc lây qua tiếp xúc trực tiếp các dịch chất khi chạm vào sang thương da của bệnh bạch hầu.”

kham-benh.jpg
ThS.BS Nguyễn Hiền Minh, Phó trưởng đơn vị Tiêm chủng Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, bệnh bạch hầu được đưa vào danh mục bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải sử dụng vắc-xin cho trẻ em khi đủ 2 tháng tuổi.

Con đường lây gián tiếp hơn như tiếp xúc vi khuẩn trên các bề mặt qua giường bệnh, bàn ghế, đồ chơi, sách, viết, tay nắm cửa… Vi khuẩn có thể hiện diện nhiều tuần trong môi trường bên ngoài, có thể do các hạt nước bọt hoặc dịch vết thương trên bề mặt sẽ khô đi ít nhiều khi ra môi trường, làm hạn chế phần nào số lượng vi khuẩn lây nhiễm. Đường lây này cũng tương tự đường lây các bệnh hô hấp khác như Covid-19, sởi...

Tiếp xúc gần với người không chích ngừa hoặc chích ngừa không đầy đủ trong vùng dịch tễ bệnh bạch hầu sẽ có nguy cơ lây nhiễm. Người lành mang vi khuẩn ở đường hô hấp đóng vai trò quan trọng để duy trì bệnh trong cộng đồng.

Theo ThS.BS Khoa, trong vùng bệnh, 3% - 5% người khỏe mạnh có thể mang vi khuẩn ở vùng hầu họng mà không có bất kỳ triệu chứng nào. Nhiễm khuẩn bạch hầu da là biểu hiện bệnh chủ yếu ở vùng nhiệt đới, nhưng gần đây những trận dịch cũng đã xảy ra ở châu Âu hoặc Bắc Mỹ trong nhóm người thu nhập thấp và nghiện rượu.

Vì vậy, người mang vi khuẩn ở da là nguồn lây âm thầm và lây truyền từ người này sang người khác qua sang thương da. Ở những vùng ôn đới, bạch hầu hô hấp xảy ra quanh năm nhưng hầu hết vào những tháng lạnh hơn trong năm kèm theo điều kiện sống chật chội, đông đúc. Một số người được chích ngừa đầy đủ vẫn có thể biểu hiện triệu chứng, tuy nhiên cơ thể có miễn dịch làm giảm mức độ nặng và tỷ lệ tử vong.

Cách phòng tránh bệnh bạch hầu

Theo ThS.BS chuyên khoa Truyền nhiễm Trần Đăng Khoa, Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM, tình trạng bệnh bạch hầu đang có chiều hướng gia tăng ở Việt Nam, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên. Do tỷ lệ tiêm vắc-xin bạch hầu ở một số vùng chưa đạt mức cao.

Bệnh bạch hầu có thể phòng ngừa bằng các biện pháp bảo vệ các bệnh lây qua đường hô hấp như:

• Giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng; che miệng khi hắt hơi hoặc ho; hạn chế tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh.

• Đảm bảo không gian nhà ở, trường học, các nơi công cộng sạch sẽ, thông thoáng

• Với những người xuất hiện các triệu chứng bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu cần được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được thăm khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời.

• Người dân sống trong vùng có ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc khám chữa bệnh cũng như các chỉ định phòng bệnh của cơ sở y tế.

Các trường hợp có tiếp xúc với bệnh nhân bạch hầu cần phải được theo dõi lâm sàng tối thiểu một tuần. Cấy phết hầu họng tìm vi khuẩn bạch hầu, và nếu dương tính thì sẽ dùng kháng sinh điều trị cho đối tượng này.

Chích nhắc vắc-xin bạch hầu mỗi 10 năm để được bảo vệ liên tục

ThS.BS Nguyễn Hiền Minh, Phó trưởng đơn vị Tiêm chủng Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, cho biết, theo Thông tư số 10/2024/TT-BYT ký ngày 13/6/2024, bệnh bạch hầu được đưa vào danh mục bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải sử dụng vắc-xin cho trẻ em khi đủ 2 tháng tuổi.

“Vắc xin phòng bạch hầu có thể tiêm cho tất cả người lớn không giới hạn độ tuổi, miễn là đạt các yêu cầu về khám sàng lọc trước tiêm chủng. Dự phòng bệnh bạch hầu tốt nhất là biện pháp chủng ngừa.

Vắc-xin phòng bạch hầu được tích hợp trong nhiều loại vắc-xin kết hợp, có thể chích cho trẻ em từ 6 tuần tuổi đến người lớn. Nên chích nhắc 1 liều vắc-xin bạch hầu mỗi 10 năm để được bảo vệ liên tục,” ThS.BS Hiền Minh cho biết.

Hiện nay, Hội Y học Dự phòng Việt Nam, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC Hoa Kỳ) khuyến cáo tiêm vắc-xin Bạch hầu - Ho gà - Uốn ván (TdaP) cho phụ nữ mang thai từ 27 đến 36 tuần thai để bảo vệ mẹ và bé.

tiem-chung.jpg
Người lớn cần tiêm nhắc vắc-xin mỗi 10 năm để tránh xuất hiện ca bệnh bạch hầu ở người lớn do lượng kháng thể giảm dần, không đủ bảo vệ

“Theo WHO, hiệu quả phòng bệnh bạch hầu ở các quốc gia tiêm đủ liều vắc-xin là rất cao, đạt từ 96,9% - 98,2%. Các triệu chứng tại chỗ sau tiêm ở người lớn thường là đau tại chỗ tiêm (62 - 94%), nhưng không có báo cáo nào về tình trạng đau dữ dội; đỏ và sưng tấy có đường kính từ 5cm trở lên khoảng 13%. Các triệu chứng chung thường gặp là đau đầu và mệt mỏi (20 - 50%), có thể sốt nhẹ nhưng không vượt quá 39°C. Không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào được báo cáo,” ThS.BS Hiền Minh cho biết.

Hiện nay, ThS.BS Hiền Minh khuyến cáo thêm, quan niệm chỉ tiêm vắc-xin phòng bệnh bạch hầu cho trẻ em là không đúng. Người lớn cần tiêm nhắc vắc-xin mỗi 10 năm để tránh xuất hiện ca bệnh bạch hầu ở người lớn do lượng kháng thể giảm dần, không đủ bảo vệ và suy giảm miễn dịch cộng đồng, gây nguy cơ bùng phát dịch bệnh; cũng như áp dụng các biện pháp phòng ngừa bệnh lây qua đường hô hấp thường xuyên.

Mắc bệnh bạch hầu rồi có thể tái nhiễm hay không?

Người khỏi bệnh bạch hầu thường sẽ có miễn dịch lâu dài, có thể bảo vệ suốt đời nếu không bị suy giảm miễn dịch do dùng thuốc ức chế miễn dịch, bệnh ác tính, HIV/AIDS…. Tỷ lệ tái nhiễm bệnh bạch hầu không cao, chỉ khoảng 2-5%. Tuy nhiên, sau khi khỏi bệnh lâm sàng, bệnh nhân có thể mang khuẩn một thời gian từ vài ngày đến 2 tuần hoặc từ 2 tuần đến 1 tháng.

Nếu tiếp xúc với bệnh nhân, một số người lành trở nên mang trùng, ở những người này vi khuẩn bạch hầu không độc với số lượng rất thấp 1 vạn lần kém hơn người mắc bệnh. Nếu vi khuẩn bạch hầu xâm nhập nhiều và độc lực cao, người miễn dịch yếu vẫn có thể mắc bệnh.

Vì vậy để tránh tình trạng gieo rắc vi khuẩn ra tập thể lành, bệnh nhân phải được cách ly và chỉ xuất viện khi cấy dịch hầu họng 3 lần âm tính cách nhau 5-7 ngày.

- ThS.BS chuyên khoa Truyền nhiễm Trần Đăng Khoa, Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM -

An Hương