Sơ cứu ngừng tim - ngừng thở ở trẻ em
Y học - Ngày đăng : 23:17, 19/01/2007
Sau đây là tóm lược những hướng dẫn mới của Hội tim học Hoa Kỳ, dựa vào việc tổng kết và phân tích các bằng chứng lâm sàng và chứng cứ thực nghiệm, có một số thay đổi đối với bản hướng dẫn trước đây.
Trong hướng dẫn này sẽ sử dụng một số quy định về tuổi như sau:
- Sơ sinh: trẻ dưới 1 tháng tuổi, bao gồm cả trẻ “mới sinh” tức những trẻ mới ra đời từ vài phút đến vài giờ.
- Trẻ bú mẹ: bao gồm trẻ sơ sinh cho đến khi tròn 12 tháng tuổi.
- Trẻ em: trẻ từ 1 đến 8 tuổi.
- Người lớn: dùng để chỉ trẻ trên 8 tuổi.
(Khi nói chung trẻ em cần hiểu là người từ sơ sinh đến 1 tuổi và trẻ em từ 1 đến 8 tuổi).
Ở trẻ em, suy hô hấp là nguyên nhân thường gặp gây ngừng tim. Do đó thao tác cấp cứu tại chỗ đầu tiên là cung cấp oxy. Để thông khí và cung cấp oxy sớm và hữu hiệu, cần biết về đặc điểm giải phẫu - sinh lý đường thở ở trẻ em:
- Lưỡi của trẻ nhỏ tương đối lớn so với kích thước hầu họng. Do đó, lưỡi di lệch ra sau dễ xảy ra và gây tắc đường thở.
- Đường thở dưới thanh quản nhỏ, mềm, ít sụn nâng đỡ. Do đó, dễ bị tắc khi bị ứ đọng đờm, nhớt, máu hoặc phù nề hay có vật lạ. Nó cũng dễ bị xẹp khi có chênh lệch áp suất trong và ngoài đường thở hoặc khi gắng sức thở trong trường hợp tắc nghẽn đường thở.
- Khung sườn mềm, không giúp nhiều cho việc duy trì thể tích phổi nên thể tích sẽ giảm khi trẻ không gắng sức thở. Vì lý do này, hô hấp của trẻ lệ thuộc nhiều vào cơ hoành, nếu bị chướng bụng có thể gây suy hô hấp.
- Trẻ em có dự trữ oxy thấp.
- Nhịp tim chậm sẽ nhanh chóng làm giảm cung cấp máu toàn thân. Vì vậy cấp cứu viên (CCV) không chuyên cần phải biết cách ấn tim khi không thấy dấu hiệu tuần hoàn hoặc nhịp tim dưới 60 lần/phút kèm dấu hiệu giảm tưới máu toàn thân (tái).
Nguyên nhân ngừng tim - ngừng thở ở trẻ em rất đa dạng, bao gồm hội chứng đột tử ở trẻ em, ngạt, ngạt nước, chấn thương và nhiễm khuẩn huyết, do đó không có một “tiêu chuẩn vàng” để xác định cấp cứu thành công cho mọi trường hợp.
Ở lứa tuổi còn bú và trẻ nhỏ, hầu hết các trường hợp chết ngoài bệnh viện là do những nguyên nhân như đột tử, chấn thương, chết đuối, ngộ độc, sặc, suyễn nặng và viêm phổi.
Trong môi trường bệnh viện, nguyên nhân ngừng tim thường gặp nhất gồm nhiễm khuẩn huyết, suy hô hấp, ngộ độc thuốc, rối loạn chuyển hóa và loạn nhịp. Những trường hợp ngừng tim này thường sẵn có bệnh tiềm ẩn.
CÁC BƯỚC HỒI SỨC
1. Trình tự cấp cứu tim - phổi
Để tăng tối đa tỉ lệ sống sót và không bị tổn thương thần kinh trong những trường hợp cấp cứu, cần thực hiện những điểm sau đây: đề phòng ngừng tim, cấp cứu tim - phổi tại chỗ khẩn trương và hữu hiệu, gọi cấp cứu lưu động. Khi một em bé bị ngừng tim - ngừng thở, phải tức khắc cấp cứu tim phổi tại chỗ. Loại cấp cứu này có thể khôi phục được tuần hoàn và tránh được hậu quả thần kinh. Trình tự cấp cứu gồm các khâu quan sát, đánh giá, can thiệp, đánh giá (màu da, cử động, hơi thở...).
2. Đánh giá đáp ứng
Kích thích nhẹ nạn nhân và hỏi để xem em bé có trả lời hoặc có cử động biểu lộ đáp ứng hay không. Không nên lay hoặc di chuyển nạn nhân khi có chấn thương đầu - cổ. Nếu trẻ đáp ứng nhưng bị thương, có thể gọi điện cho hệ thống cấp cứu hoặc kêu thêm người phụ giúp. Phải bất động tạm thời nếu nghi có gãy xương; đặc biệt là cột sống cổ. Nếu trẻ không đáp ứng, nên làm hồi sức ngay trong khoảng một phút rồi hãy gọi điện. Nếu em bé còn nhỏ có thể đưa gần đến máy điện thoại, vừa cấp cứu vừa gọi điện; không nên rời máy vì nhân viên cấp cứu có thể hướng dẫn những điều cần làm qua điện thoại trong khi chờ xe cấp cứu đến.
CẤP CỨU HÔ HẤP NHÂN TẠO
1. Kiểm tra xem nạn nhân có tự thở được không: kề tai sát miệng nạn nhân để nghe và cảm nhận luồng hơi thở ra, hít vào; đồng thời nhìn cử động lồng ngực; hoặc dùng sợi tóc hay lông vũ gà, vịt... để trước lỗ mũi nạn nhân và quan sát sự di động (lưu ý che chắn gió để tránh lầm với sự di động của sợi tóc do hơi thở). Nếu em bé còn thở bình thường (cần loại trừ thở ngáp khi hấp hối và thở gắng sức, hay có vật lạ bít ở đường thở) nhưng mất tri giác và không bị chấn thương nên đặt nạn nhân ở tư thế hồi sức.
Hình 1: Tư thế hồi sức |
Các tư thế: Đối với trẻ không còn đáp ứng, để trẻ nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng. Nếu là trẻ còn bú vàkhông nghi có chấn thương, có thể bế ngửa bé trên tay (cánh tay nâng đỡ phần thân của bé sao cho bàn tay có thể đỡ được đầu bé và khuỷu tay đỡ được hai chân). Tư thế hồi sức tốt nhất cho nạn nhân hôn mê (hình 1) là một tư thế ổn định bảo đảm thông đường thở, cột sống cổ ổn định, ít nguy cơ hít phải chất nôn hoặc đờm nhớt, hạn chế chèn ép các lồi xương và dây thần kinh ngoại biên, và có thể quan sát được động tác thở và vẻ mặt nạn nhân.
2. Làm thông đường thở: Lưỡi nạn nhân là nguyên nhân gây tắc nghẽn thường gặp nhất ở trẻ không còn đáp ứng. Do đó, nên thông đường thở bằng cách ngửa đầu - nâng cằm hoặc nâng hàm dưới để lưỡi không đè vào thành sau họng gây tắc nghẽn đường thở.
Thủ thuật ngửa đầu - nâng cằm (hình 2): chỉ dùng khi trẻ không còn đáp ứng và không nghi có chấn thương vùng cổ. Một tay đặt lên trán nạn nhân và nhẹ nhàng ngửa đầu ra sau, bàn tay kia nâng cằm để làm thông đường thở.
Hình 2: Thủ thuật ngửa đầu - nâng cằm trẻ em
Thủ thuật nâng hàm: nếu nghi có chấn thương đầu - cổ, chỉ nên dùng thủ thuật này để thông đường thở. Đặt 2, 3 ngón tay dưới mỗi bên hàm dưới nạn nhân, nâng hàm hướng lên trên và ra ngoài. Khuỷu tay cấp cứu viên (CCV) phải tựa vào nền cứng. Nếu có một người thứ hai bên cạnh thì người này sẽ giữ bất động cột sống cổ, sau khi đã gọi điện cho hệ thống cấp cứu lưu động.
Nếu nghi có vật lạ trong đường thở của một em bé không còn đáp ứng, nên dùng thủ thuật nâng hàm - rà họng để lấy vật ra (thủ thuật này chỉ dành cho nhân viên y tế được đào tạo).
3. Hô hấp nhân tạo: Nếu trẻ không thở tự nhiên, sau khi khai thông đường thở, CCV hít sâu và hô hấp nhân tạo (thổi ngạt) cho nạn nhân. Thể tích thổi ngạt đủ để làm ngực trẻ phồng lên. Trước tiên cần thổi ngạt 2 lần liên tục, trong khoảng 3 giây; nên thổi ngạt một cách hữu hiệu (làm lồng ngực phồng lên).
- Thổi ngạt qua miệng và mũi (hình 3):áp dụng cho trẻ dưới 1 tuổi; miệng CCV phải áp kín miệng và mũi em bé. Nếu không áp kín hết, có thể dùng cách thổi ngạt qua mũi. Điểm quan trọng là phải giữ đầu em bé đúng tư thế (nghiêng đầu - nâng cằm) và không để hơi thổi ngạt lọt ra ngoài.
Hình 3: Thổi ngạt qua miệng và mũi |
- Thổi ngạt qua mũi: có thể dùng thay cho cách thổi qua miệng và mũi, đặc biệt khi CCV cảm thấy khó khăn khi dùng cách thổi ngạt trên. Cần nâng cằm nạn nhân để thông đường thở và đóng kín miệng.
- Thổi ngạt qua miệng (hình 4):áp dụng với trẻ lớn (1 đến 8 tuổi), cần giữ thông đường thở bằng cách ngửa đầu - nâng cằm hoặc nâng hàm nạn nhân, đồng thời phải dùng ngón tay kẹp chặt mũi của trẻ. Vừa thổi ngạt vừa quan sát xem lồng ngực nạn nhân có phồng lên không.
Hình 4: Thổi ngạt qua miệng đồi với trẻ lớn |
Cần chú ý: Khi thổi ngạt, nhất là nhịp thổi nhanh, có thể làm căng dạ dày nạn nhân, cơ hoành nâng lên, khiến việc cấp cứu hô hấp kém hiệu quả và có thể gây trào ngược chất chứa trong dạ dày. Có thể tránh hiện tượng này bằng cách thổi chậm (1 - 1,5 giây) với áp lực đủ mạnh, đồng thời đè sụn nhẫn để thông đường thở tốt hơn và ép thực quản lại để bớt lọt hơi vào dạ dày. ó