Phương pháp mới: ứng dụng icg trong điều trị ung thư đại trực tràng

Y học - Ngày đăng : 10:07, 24/07/2016

(KHPT) Ở các nước phát triển, tần suất ung thư đại trực tràng giảm dần từ 2,1 - 2,8% mỗi năm. Nguyên nhân của việc giảm này có thể do hiệu quả của những chương trình tầm soát ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, tần suất ung thư đại trực tràng đang ngày càng gia tăng ở các nước đang phát triển. Hiện nay, tại Việt Nam số lượng ung thư đại trực tràng đang gia tăng đáng kể so với 10 năm trước. 

Theo thống kê BV. ĐH Y Dược TPHCM mỗi năm tiếp nhận điều trị khoảng 500-700 trường hợp ung thư đại trực tràng. Hầu hết người bệnh đều ở giai đoạn muộn (Giai đoạn III - IV), số người bệnh ở giai đoạn sớm thường ít gặp. Tỷ lệ khỏi bệnh của ung thư giai đoạn sớm là trên 95%, nhưng khi ung thư có triệu chứng khoảng 50% và ung thư di căn xa tỷ lệ chữa khỏi chỉ còn dưới 5%.

Mới đây, tại BV. ĐH Y Dược TPHCM – đơn vị đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam được Bộ Y tế cho phép ứng dụng ICG trong phẫu thuật điều trị ung thư đại trực tràng, ICG giúp làm tăng tỷ lệ xác định chính xác các hạch đã di căn.

ThS BS. Nguyễn Hữu Thịnh – Trưởng phòng Khoa học Đào tạo tại BV này, cho biết Indocyanine green (ICG) là một chất nhuộm màu được sử dụng trong chẩn đoán y khoa. ICG được áp dụng rộng rãi trên thế giới ở các bệnh lý như ung thư đại trực tràng, ung thư vú, ung thư da... Khi áp dụng ICG sẽ giúp làm tăng tỷ lệ xác định chính xác đối với các hạch di căn và giúp chẩn đoán bệnh chính xác hơn, từ đó giúp phẫu thuật cắt bỏ u và nạo vét hạch triệt để hơn. Điều này giúp tăng khả năng khỏi bệnh và giảm tỷ lệ tái phát đối với người bệnh ung thư đại trực tràng. Chi phí phẫu thuật khi áp dụng ICG thay đổi không đáng kể. 

Hai bệnh nhân đầu tiên ở Việt Nam được ứng dụng ICG trong phẫu thuật nội soi điều trị ung thư đại trực tràng, tiên lượng sống trên 5 năm. Bệnh nhân Nguyễn Thị V, 39 tuổi, Tiền Giang, nhập viện vì đi cầu ra máu 2 tuần. Người bệnh được khám, nội soi đại trực tràng, làm MRI và được chẩn đoán bị ung thư trực tràng giai đoạn IIB. Phương pháp điều trị là mổ cắt trực tràng và nạo hạch triệt căn dưới hướng dẫn của ICG. Tiên lượng tốt, tỉ lệ sống trên 5 năm từ 70 – 80% và anh Trần Trung C, 35 tuổi, Long An, nhập viện vì táo bón, sụt cân 10kg trong 2 tháng, đau âm ỉ bụng bên trái. Người bệnh được khám, nội soi đại trực tràng, làm MRI và được chẩn đoán ung thư đại tràng chậu hông di căn gan đa ổ. Phương pháp điều trị bước 1 là cắt đại tràng chậu hông và nạo hạch dưới sự hướng dẫn của ICG. Bước 2 là khảo sát đột biến gen KRAS. Nếu KRAS không đột biến, người bệnh sẽ tiếp tục được hóa trị nhắm trúng đích. Sau đó, người bệnh được đánh giá lại bằng CT scan. Trong trường hợp còn sang thương, người bệnh sẽ được chỉ định cắt u gan. Tiên lượng sống trên 5 năm đối với trường hợp này là 30 – 40%.

Theo BS. Thịnh, ung thư đại trực trạng ở giai đoạn sớm tỷ lệ chữa khỏi trên 95%. Tuy nhiên, ung thư đại trực tràng giai đoạn sớm hầu như không có triệu chứng. Ở giai đoạn trễ hơn, người bệnh ung thư đại trực tràng thường có các biểu hiện như tiêu ra máu, thay đổi thói quen đi tiêu (tiêu phân lỏng xen kẽ táo bón), thay đổi hình dạng khối phân, mót rặn, đau bụng và thiếu máu (các triệu chứng này có thể gặp ở các bệnh lý khác)... Nếu người bệnh đến trễ, có thể gặp các biến chứng như tắc ruột, chảy máu tiêu hóa, thủng u. Trung bình có khoảng 20 - 25% người bệnh ung thư đại trực tràng được chẩn đoán ở giai đoạn rất trễ khi các tế bào ung thư đã tiến triển và lan rộng. Do đó, các nhóm đối tượng có nguy cơ cao như gia đình có người mắc ung thư, béo phí, thuốc lá… cần tầm soát ung thư hàng năm.

MINH UYÊN